BỘ
TÀI CHÍNH-TỔNG CỤC HẢI QUAN |
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 06/1999/TTLT-BTC-TCHQ |
Hà Nội , ngày 15 tháng 1 năm 1998 |
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại các công văn số 1150/CP-KTTH ngày 28/9/1998, số 6430/KTTH ngày 15/12/1997 của Chính phủ về việc xử lý truy thu thuế xuất nhập khẩu và xử lý nợ đọng thuế xuất nhập khẩu; Liên Bộ Tài chính - Tổng cục Hải quan hướng dẫn cụ thể như sau:
I - XỬ LÝ TRUY THU THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU:
1- Đối với các trường hợp do sai phạm của doanh nghiệp (kể cả các trường hợp đã được cơ quan Hải quan kiểm hoá hàng xuất nhập khẩu, tính thuế, thu thuế, doanh nghiệp đã bán hết hàng, đã quyết toán lãi, lỗ...), thì cơ quan Hải quan nơi doanh nghiệp làm thủ tục xuất nhập khẩu phải truy thu đủ số tiền thuế và phạt theo quy định hiện hành của Pháp luật. Cụ thể như sau:
- Có hành vi khai báo gian lận về giá xuất khẩu, nhập khẩu.
- Khai sai tên mặt hàng thực tế xuất khẩu, nhập khẩu.
- Khai sai số lượng, chủng loại, phẩm cấp, xuất xứ...của hàng xuất khẩu, nhập khẩu.
- Không cung cấp đầy đủ hồ sơ có liên quan đến lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu làm cơ sở cho cơ quan Hải quan kiểm hoá hoặc tính thuế.
- Các sai phạm khác của doanh nghiệp dẫn đến bị truy thu thuế.
- Tổng cục Hải quan chỉ đạo cục Hải quan các địa phương kiểm tra từng trường hợp cụ thể, phân tích rõ nguyên nhân phải truy thu và tổng hợp toàn bộ hồ sơ có liên quan báo cáo gửi Tổng cục Hải quan.
- Trên cơ sở kết quả kiểm tra và báo cáo của Cục Hải quan các địa phương, Tổng cục Hải quan tổng hợp, có ý kiến đề nghị Bộ Tài chính xem xét xử lý từng trường hợp cụ thể.
Cán bộ, nhân viên Hải quan có vi phạm làm thất thu cho Ngân sách nhà nước thì tuỳ theo mức độ sẽ bị xử lý vi phạm theo quy định của Pháp luật
II- XỬ LÝ NỢ ĐỌNG THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU
Các khoản nợ thuế xuất nhập khẩu của các tờ khai đăng ký và thông báo thuế của cơ quan Hải quan trước ngày 15/10/1998 được xử lý như sau:
1. Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động nhưng còn nợ thuế xuất nhập khẩu thì cơ quan Hải quan nơi doanh nghiệp có nợ thuế yêu cầu doanh nghiệp đến làm thủ tục đối chiếu, xác nhận số nợ thuế xuất nhập khẩu của doanh nghiệp (riêng các doanh nghiệp giải thể sáp nhập vào doanh nghiệp khác; doanh nghiệp được tách thành nhiều doanh nghiệp mới thì cơ quan tiếp nhận doanh nghiệp sáp nhập hoặc cơ quan cấp trên trực tiếp của doanh nghiệp được chia tách phải làm thủ tục đối chiếu, xác nhận số thuế xuất nhập khẩu với cơ quan Hải quan. Đối với các trường hợp doanh nghiệp được tách ra thành nhiều doanh nghiệp mới, thì trong bản đối chiếu phải ghi rõ tên các doanh nghiệp sau khi chia tách chịu trách nhiệm nộp số nợ cũ và mức nộp cụ thể theo từng tờ khai hàng xuất nhập khẩu của mỗi doanh nghiệp). Trên cơ sở bản đối chiếu, xác nhận nợ, cơ quan Hải quan đôn đốc doanh nghiệp nộp số nợ thuế vào ngân sách nhà nước theo chế độ quy định.
Đối với các doanh nghiệp có nợ thuế nhưng do những nguyên nhân khách quan đã được Chính phủ, Bộ Tài chính cho phép giãn nợ hoặc khoanh nợ, đã hết thời hạn được giãn nợ, khoanh nợ thì doanh nghiệp cũng phải đối chiếu số còn thiếu , còn nợ và nộp vào ngân sách nhà nước theo đúng chế độ quy định.
Mọi trường hợp không nộp thuế theo đúng chế độ quy định đều bị cưỡng chế thi hành theo quy định hiện hành của pháp luật.
2. Đối với các doanh nghiệp đã giải thể, phá sản không còn hoạt động thì cơ quan cấp trên, cơ quan ra quyết định giải thể doanh nghiệp chỉ đạo Ban thanh lý giải thể doanh nghiệp hoặc Tổ thanh toán tài sản (đối với doanh nghiệp phá sản) thực hiện việc thanh toán các khoản công nợ của doanh nghiệp bị giải thể, phá sản theo đúng thứ tự ưu tiên quy định tại Điều 39 Luật phá sản Doanh nghiệp ngày 30/12/1993 và điểm 6, mục III Thông tư số 25 TC/TCDN ngày 15/5/1997 của Bộ Tài chính hướng dẫn trình tự, thủ tục, nguyên tắc xử lý tài chính khi giải thể doanh nghiệp nhà nước.
Trường hợp giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp không đủ trả nợ thuế xuất nhập khẩu thì Cục Hải quan địa phương kết hợp với Ban thanh lý giải thể doanh nghiệp, Cục Quản lý vốn và Tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp, kiểm tra và có văn bản (kèm theo hồ sơ) gửi Tổng cục Hải quan trước ngày 31/3/1999 để Tổng cục Hải quan có ý kiến đề nghị Bộ Tài chính báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động, nhưng có khoản nợ thuế xuất nhập khẩu không có khả năng thu hồi do nguyên nhân bất khả kháng thì Uỷ ban nhân dân tỉnh (đối với các doanh nghiệp địa phương) hoặc Bộ chủ quản (đối với các doanh nghiệp trung ương) kiểm tra cụ thể đối với từng trường hợp, có văn bản (kèm hồ sơ) gửi Tổng cục Hải quan trước ngày 31/3/1999 để Tổng cục Hải quan có ý kiến đề nghị Bộ Tài chính báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
3. Đối với những doanh nghiệp còn nợ thuế của các lô hàng nhận uỷ thác xuất khẩu, nhập khẩu cho các doanh nghiệp khác được xử lý như sau:
3.1 Trường hợp doanh nghiệp còn nợ thuế của các lô hàng nhận uỷ thác xuất nhập khẩu cho doanh nghiệp khác sẽ được cơ quan Hải quan nơi doanh nghiệp còn nợ thuế làm thủ tục chuyển số nợ thuế sang doanh nghiệp có hàng đưa uỷ thác xuất nhập khẩu để theo dõi đôn đốc thu nợ thuế, với điều kiện có Biên bản xác nhận nợ thuế giữa hai doanh nghiệp theo từng tờ khai hàng xuất nhập khẩu uỷ thác và doanh nghiệp có hàng đưa uỷ thác xuất nhập khẩu phải là doanh nghiệp được phép hoạt động xuất nhập khẩu trực tiếp.
Doanh nghiệp có hàng đưa uỷ thác xuất nhập khẩu cũng phải thực hiện nộp thuế và sẽ bị cưỡng chế nếu vi phạm, theo quy định tại mục 1, phần II Thông tư này.
3.2 Trường hợp doanh nghiệp còn nợ thuế của các lô hàng nhận uỷ thác xuất nhập khẩu cho doanh nghiệp khác, mà doanh nghiệp đưa uỷ thác xuất nhập khẩu đã bị giải thể, phá sản và giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp đưa uỷ thác không đủ để trả nợ thuế cho các lô hàng uỷ thác xuất nhập khẩu thì được xử lý theo quy định tại mục 2, phần II Thông tư này.
4. Đối với số nợ thuế của các lô hàng tạm nhập, tái xuất; nhập khẩu nguyên vật liệu để sản xuất hàng xuất khẩu đã thực tái xuất hàng ngoài thời hạn nộp thuế cho phép thì cơ quan Hải quan xử lý xoá nợ thuế tương ứng với số lượng hàng hoá đã tái xuất. Thủ tục để xem xét xoá nợ thuế thực hiện theo quy định về thủ tục không thu thuế đối với hàng tạm nhập tái xuất, hàng nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu đã thực tái xuất trong thời hạn nộp thuế nhập khẩu.
Đến hết ngày 15/10/1998 nếu doanh nghiệp đã nộp xong tiền thuế nợ đọng quá hạn cho từng tờ khai hàng hoá xuất nhập khẩu thì doanh nghiệp được miễn phạt chậm nộp tương ứng với số tiền thuế đã nộp cho từng tờ khai hàng hoá xuất nhập khẩu đó.
Tổng cục Hải quan chỉ đạo, hướng dẫn Cục Hải quan các địa phương giải quyết thủ tục miễn phạt theo quy định trên và tổng hợp báo cáo Tổng cục Hải quan, Bộ Tài chính.
- Doanh nghiệp xuất khẩu hàng ra nước ngoài
- Doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu, vật tư để sản xuất hàng xuất khẩu hoặc gia công cho nước ngoài theo hợp đồng đã ký (Trừ trường hợp đã xuất khẩu hết sản phẩm theo hợp đồng, hết thời hạn thanh lý hợp đồng và cơ quan Hải quan đã đôn đốc nhưng doanh nghiệp không đến làm thủ tục thanh khoản thuế); kinh doanh hàng tạm nhập - tái xuất; chuyển khẩu.
- Doanh nghiệp nợ đọng thuế (kể cả số nợ thuế phải truy thu) đã đăng ký kế hoạch nộp hết số nợ thuế (thời hạn nộp hết thuế nợ đọng trước ngày 31/12/1998. Đối với doanh nghiệp có số nợ thuế lớn trên 2 tỷ đồng thì thời hạn tối đa không quá ngày 30/6/1999) theo từng tháng với cơ quan Hải quan, nơi doanh nghiệp còn nợ thuế và thực hiện đúng kế hoạch trả nợ thuế đã đăng ký.
2. Trong quá trình thực hiện xử lý truy thu thuế xuất nhập khẩu và nợ đọng thuế xuất nhập khẩu , nếu phát hiện doanh nghiệp nào cố tình chây ỳ, hoặc có hành động gây cản trở đối với lực lượng làm nhiệm vụ nhằm mục đích chiếm dụng tiền thuế của Ngân sách nhà nước thì Cục Hải quan các tỉnh, thành phố lập hồ sơ báo cáo về Tổng cục Hải quan để Tổng cục Hải quan báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Tuỳ theo mức độ vi phạm của các doanh nghiệp này mà đề nghị phải bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
3. Việc xử lý nợ đọng, truy thu và phạt chậm nộp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng nhập khẩu cũng được thực hiện theo các quy định tại Thông tư này.
4. Thông tư này có hiệu lực sau 15 ngày kể từ ngày ký. Những quy định trái với tinh thần Thông tư này đều bãi bỏ.
Tổng cục Hải quan chỉ đạo Cục Hải quan các địa phương thực hiện thống nhất nội dung quy định tại Thông tư này.
Trong quá trình thực hiện có gì vướng mắc, các đơn vị kịp thời phản ảnh về Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan để nghiên cứu xử lý kịp thời.
Nguyễn Văn Cầm (Đã ký) |
Phạm Văn Trọng (Đã ký) |
THE MINISTRY OF
FINANCE - |
SOCIALIST REPUBLIC OF VIET NAM |
No: 06/1999/TTLT/BTC-TCHQ |
Hanoi, January 15, 1999 |
JOINT CIRCULAR
GUIDING THE DEBT SETTLEMENT, COLLECTION OF ARREARS OF EXPORT TAX, IMPORT TAX AND SPECIAL CONSUMPTION TAX ON IMPORT GOODS AND OF FINES ON LATE PAYMENT THEREOF
Following the Prime Ministers direction in official dispatches No.1150/CP-KTTH of September 28, 1998 and No. 6430/KTTH of February 15, 1997 of the Government on the collection of import and export tax arrears and settlement of import and export tax debts; the Ministry of Finance and the General Department of Customs hereby jointly provide the following guidance:
I. COLLECTION OF IMPORT AND EXPORT TAX ARREARS:
Tax arrears and/or fines which must be collected after having been found out in import-export declarations already registered with the customs agencies before October 15, 1998 shall be dealt with as follows:
1. For cases of violations by enterprises (even where the customs agencies have inspected import-export goods, calculated and collected taxes; and the enterprises have sold out goods and made final settlement of profits and losses...), the customs agencies of the localities where the enterprises fill import-export procedures shall have to fully collect tax arrears and fines according to the current provisions of law. Acts of violations include:
- Falsely declaring the import and/or export tax calculation prices.
- Falsely declaring the names of actually imported or exported goods.
...
...
...
- Failing to fully supply dossiers related to import-export goods lots which shall serve as basis for the customs agencies to inspect the goods or calculate taxes;
- Other violations by enterprises, that lead to the collection of tax arrears.
2. For cases of violations due to objective causes, not at the enterprises faults, such as the ambiguity and inadequacy of regulations; the absence of guiding documents or due to the faults of customs officers/personnel..., they shall be handled as follows:
- The General Department of Customs shall direct the provincial/municipal Customs Departments to inspect case by case, clearly justifying the reasons for retrospective collection and make a sum-up report on all relevant dossiers then submit it to the General Department of Customs.
- Basing itself on the inspection results and reports of the provincial/municipal Customs Departments, the General Department of Customs shall make a sum-up report and send it to the Ministry of Finance, requesting the latter to consider and handle case by case.
Customs officers and personnel who commit acts of violation thus causing losses to the State budget shall, depending on the seriousness of their violations, be sanctioned according to the provisions of law.
II. SETTLEMENT OF IMPORT-EXPORT TAX DEBTS:
Import-export tax debts reflected on the registration declaration forms and customs tax notices before October 15, 1998 shall be handled as follows:
1. For operating enterprises which still owe import-export tax debt, the customs agencies of the localities where the debtors-enterprises are located shall request them to come and fill procedures for comparison and certification of their import-export tax debt amounts (as for dissolved or merged enterprises and/or split enterprises, the agencies accepting the merged enterprises or the immediate higher-level agencies of the split enterprises shall have to fill procedures for the comparison and certification of the payable import-export tax amounts with the customs agencies. For cases where an enterprise is split into a number of new ones, the document of comparison must state clearly the names of the after-split enterprises, which shall have to pay the old debts and the concrete payable amounts, according to each specific import-export declaration of each enterprise. Basing themselves on the documents of comparison and debt certification, the customs agencies shall urge the concerned enterprises to pay tax debts to the State budget as prescribed.
...
...
...
All cases of failing to pay taxes according to the regulations shall be subject to coercive measures as currently prescribed by law.
2. For the already dissolved or bankrupt enterprises which have stopped their operations, their superior agencies and/or the agencies issuing decisions on the dissolution of such enterprises shall direct the liquidation boards for the dissolution of enterprises or the property liquidation groups (for the bankrupt enterprises) to settle the dissolved or bankrupt enterprises debts in strict compliance with the order of priority stipulated in Article 39 of the Law on Bankruptcy of Enterprises dated December 30, 1993 and Point 6, Item III, Circular No. 25-TC/TCDN of May 15, 1997 of the Ministry of Finance guiding the order, procedures and principles for financial settlement when State enterprises are dissolved.
If the value of the remaining properties of enterprises is not enough for the payment of import-export tax debts, the provincial/municipal Customs Departments shall coordinate with the liquidation boards for the dissolution of enterprises and the Departments for the Management of the States Capital and Property at Enterprises in conducting inspection and sending reports thereon (attached with dossiers) to the General Department of Customs before March 31, 1999 so that the latter may propose the Ministry of Finance to further report to the Prime Minister.
For operating enterprises which owe irrecoverable import-export tax debts due to force majeure causes, the provincial Peoples Committees (for locally-run enterprises) or the parent ministries (for centrally-run enterprises) shall inspect case by case and send reports thereon (enclosed with dossiers) to the General Department of Customs before March 31, 1999 so that the latter may propose the Ministry of Finance to further report to the Prime Minister.
3. Enterprises owing debts related to taxes on the lots of goods consigned for import and/or export by other enterprises shall be dealt with as follows:
3.1. Where an enterprise owes debts related to taxes on the lots of import or export goods consigned by another enterprise, the customs agency at the locality where the debtor- enterprise is situated shall fill procedures for the transfer of the tax-related debts to the enterprise that has consigned goods for import and/or export so as to monitor and urge the collection of outstanding debt, provided that theres a written certification of tax debts between the two enterprises according to each specific declaration of consigned import-export goods and the enterprise with goods consigned for import and/or export must be the one permitted to engage in direct import and/or export activities.
The enterprise having goods consigned for import and/or export shall also have to pay taxes and be subject to coercive measures if committing violation(s), as stipulated in Item 1, Part II of this Circular.
3.2. In cases where an enterprise is owing debts related to taxes on the lots of goods consigned by another enterprise for import and/or export, but the consigning enterprise has been dissolved or bankrupt and the value of its remaining properties cannot cover the tax debt payment for the lots of consigned import-export goods, the settlement shall comply with the provisions of Item 2, Part II of this Circular.
4. For debts related to taxes on the lots of goods temporarily imported for re-export; the import of raw materials and materials for the production of export goods, which have actually been exported after the prescribed tax payment time-limit, the customs agencies shall write off the tax debts corresponding to the amount of goods already exported. The procedures for consideration of debt clearance shall comply with the procedures on the non-collection of taxes on goods temporarily imported for re-export, goods imported for the production of export commodities which have actually been re-exported within the import tax- payment time-limit.
...
...
...
By the end of October 15, 1998, if enterprises have fully paid tax arrears for each import-export declaration, such enterprises shall not have to pay fines on the late payment of taxes, corresponding to the tax amount already paid for each specific import-export declaration.
The General Department of Customs shall guide and direct the provincial/municipal Customs Departments to fill procedures for the above-said fine exemption, make a sum-up report thereon and submit it to the General Department of Customs and the Ministry of Finance.
IV. OTHER PROVISIONS:
1. The provincial/municipal Customs Departments shall still proceed with customs procedures for enterprises which are subject to coercive measures in the following cases:
- The enterprises export goods to foreign countries.
- The enterprises import raw materials and/or materials for the production of export goods or goods processing under contracts signed with foreign parties (except for cases where they have exported all contracted products or the contract-liquidation duration has expired and where despite the customs agencies request, the concerned enterprises still fail to fill the tax settlement procedures); and the enterprises trading in goods temporarily imported for re-export; or transport across borders.
- The enterprises owing tax debts (including the to be- collected tax arrears) have registered the plan on the full payment of tax debts (before December 12, 1998. For enterprises with the tax debt amount reaching more than 2 billion VN dong, the maximum time-limit must not go beyond June 30, 1999) on the monthly basis with the customs agencies of the localities where the debtors- enterprises are situated and strictly abide by the already registered debt payment plan.
2. In the course of collecting import-export tax arrears and settlement of import-export tax debts, if any enterprise is detected as having deliberately delayed the tax payment or committed acts of obstructing forces on duty for the purpose of appropriating tax money of the State budget, the provincial/municipal Customs Departments shall compile dossiers, make reports and send them to the General Department of Customs so that the latter may further report to the Prime Minister. Depending on the seriousness of violations of the concerned enterprises, the General Department of Customs shall propose that such enterprises be subject to administrative sanctions or examination for penal liability.
3. The debt settlement, the collection of arrears of the special consumption tax on import goods as well as the fine on the late payment thereof shall also comply with the provisions of this Circular.
...
...
...
The General Department of Customs shall direct the provincial/municipal Customs Departments to uniformly implement the provisions in this Circular.
In the course of implementation, if any problems arises, the concerned units should quickly report them to the Ministry of Finance and the General Department of Customs for study and timely handling.
THE MINISTRY OF FINANCE
VICE MINISTER
Pham Van Trong
THE GENERAL DEPARTMENT
OF CUSTOMS
DEPUTY GENERAL DIRECTOR
Nguyen Van Cam
;
Thông tư liên tịch 06/1999/TTLT-BTC-TCHQ hướng dẫn xử lý nợ đọng, truy thu và phạt chậm nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt của hàng nhập khẩu do Bộ Tài chính - Tổng cục Hải quan ban hành
Số hiệu: | 06/1999/TTLT-BTC-TCHQ |
---|---|
Loại văn bản: | Thông tư liên tịch |
Nơi ban hành: | Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan |
Người ký: | Nguyễn Văn Cầm, Phạm Văn Trọng |
Ngày ban hành: | 15/01/1999 |
Ngày hiệu lực: | Đã biết |
Tình trạng: | Đã biết |
Văn bản đang xem
Thông tư liên tịch 06/1999/TTLT-BTC-TCHQ hướng dẫn xử lý nợ đọng, truy thu và phạt chậm nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt của hàng nhập khẩu do Bộ Tài chính - Tổng cục Hải quan ban hành
Chưa có Video