TỔNG CỤC HẢI QUAN |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 233/TCHQ-GSQL |
Hà Nội, ngày 18 tháng 11 năm 1994 |
CHỈ THỊ
VỀ CÔNG TÁC KIỂM TRA, GIÁM SÁT BẰNG MÁY KIỂM TRA HẢI QUAN VÀ CAMERA TẠI HAI SÂN BAY QUỐC TẾ NỘI BÀI VÀ TÂN SƠN NHẤT
Để đáp ứng yêu cầu đổi mới công tác kiểm tra, giám sát của hải quan đối với hàng hoá, hành lý của hành khách xuất, nhập cảnh qua đường hàng không, nhằm đơn giản hoá thủ tục, giảm dần và tiến tới xoá bỏ những phiền hà trong các khâu thủ tục hải quan, Tổng cục Hải quan đã trang bị được một số phương tiện máy kiểm tra và camera đặt tại hai sân bay quốc tế Nội Bài và Tân Sơn Nhất để triển khai quy trình thủ tục Hải quan phân luồng theo "cửa xanh, cửa đỏ".
Qua một thời gian thử nghiệm tại hai sân bay quốc tế Nội Bài và Tân Sơn Nhất cho thấy việc phân luồng theo quy trình "cửa xanh, cửa đỏ" và triển khai hệ thống máy kiểm tra, camera bước đầu đã đạt được những kết quả nhất định trong công tác giám sát, quản lý hải quan, được sự hưởng ứng, khen ngợi của hành khách xuất, nhập cảnh trong và ngoài nước, sự đồng tình ủng hộ của các ngành hữu quan; nhưng mặt khác, do công tác này còn mới chưa có kinh nghiệm nhiều nên hiệu quả chưa cao.
Từ những kết quả đã đạt được và những tồn tại, yếu kém thể hiện sau thời gian thử nghiệm, Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan chỉ thị một số điểm sau đây:
1. Về việc tập huấn sử dụng máy kiểm tra.
- Tổng kết, đúc rút kinh nghiệm việc triển khai sử dụng máy kiểm tra được áp dụng từ trước đến nay. Trên cơ sở đó, nghiên cứu tổ chức mở các lớp tập huấn để không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ, kỹ thuật cho những cán bộ, nhân viên trực tiếp điều hành sử dụng máy. Các lớp huấn luyện cần được tổ chức thường xuyên nhằm đối phó kịp thời những thủ đoạn thường hay thay đổi hình thức cất giấu hàng lậu, hàng cấm...
- Cán bộ, nhân viên sau mỗi đợt tập huấn phải có thêm được những kiến thức mới, những kinh nghiệm mới để phát hiện nhanh, chính xác hình dạng các loại hàng cấm xuất nhập khẩu, hàng cấm vận chuyển, hàng lậu v.v... qua màn hình máy kiểm tra.
- Để đạt được yêu cầu trên, trước khi tổ chức tập huấn phải chuẩn bị đầy đủ các hiện vật (các loại vũ khí, đạn dược, các chất ma tuý, chất nổ, chất cháy, kim khí quý, đá quý các loại, ngoại tệ v.v...) và các kiện vật này được gói bọc trong các loại bao bì bằng các chất liệu khác nhau; các kiện hàng có chứa các vật này cho đi qua máy khi tập huấn được đặt, để nhiều kiểu khác nhau (đặt đứng, nằm, nghiêng v.v..). - Sau mỗi đợt tập huấn, tổ chức họp để trao đổi, thống nhất và tổng kết những kinh nghiệm mới đã thu được để áp dụng trong công tác hàng ngày.
2. Về việc sử dụng camera:
- Xây dựng các quy định về việc sử dụng, bảo quản camera, băng hình đã có chương trình nhằm bảo đảm tuyệt đối an toàn bí mật.
- Phối kết hợp tốt giữa bộ phận làm công tác điều tra chống buôn lậu ở cửa khẩu, bộ phận được phép mặc thường phục làm công tác giám sát với bộ phận điều hành, sử dụng camera, máy kiểm tra thành một hệ thống liên hoàn không thể tách rời trong công tác đấu tranh chống các hành vi vi phạm pháp luật hải quan.
- Sử dụng hệ thống camera trong công tác giám sát, quản lý về hải quan giữ vị trí rất quan trọng, đặc biệt trong điều kiện các nhà ga, sân bay ta còn lạc hậu chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế. Các chuyến bay và hành khách xuất, nhập cảnh ngày càng tăng, vì vậy phải bố trí một lãnh đạo cửa khẩu chỉ đạo trực tiếp và chịu trách nhiệm trước lãnh đạo Cục Hải quan thành phố, đồng thời phải bố trí những cán bộ, nhân viên trực tiếp làm việc này có năng lực, có trình độ chuyên môn giỏi, có bản lĩnh và có phẩm chất, đạo đức tốt.
3. Về quy trình "cửa xanh, cửa đỏ".
- Trước mắt, tạm thời áp dụng các thao tác, các khâu nghiệp vụ hiện Tổng cục đã có chỉ đạo.
Sang năm 1995, tổ chức tổng kết và báo cáo cụ thể (có đề xuất, kiến nghị) gửi Tổng cục để kết hợp xây dựng một quy trình tổng hợp các khâu nghiệp vụ hải quan qua đường hàng không.
- Một trong những yếu tố quan trọng để quá trình đổi mới công tác nghiệp vụ hải quan đạt hiệu quả ngày càng cao là phải trang bị đầy đủ các phương tiện kỹ thuật hiện đại nhưng yếu tố quan trọng nhất và tính chất quyết định vẫn là yếu tố con người. Do vậy, vấn đề tuyển dụng, đào tạo, giáo dục và bố trí cán bộ là việc làm bức bách hiện nay của toàn ngành; nhưng trước mắt để đảm đương được nhiệm vụ này, Cục Hải quan các địa phương đã được trang bị máy kiểm tra hải quan, camera... lựa chọn trong số biên chế hiện có những cán bộ, nhân viên có trình độ ngoại ngữ, chuyên môn, có kiến thức văn hoá, có tư cách, phẩm chất... đã được thử thách qua rèn luyện trong thực tế để giao nhiệm vụ thích hợp với mục đích, yêu cầu từng khâu nghiệp vụ trong quy trình "cửa xanh, cửa đỏ", kể cả việc hướng dẫn, giải thích cho hành khách đi qua "cửa xanh, cửa đỏ" và chấp hành chính sách, chế độ, thể lệ, thủ tục hải quan. Đặc biệt là trong thời kỳ đầu thực hiện quy trình "cửa xanh, cửa đỏ".
4. Về công tác xử lý các vi phạm.
- Bất cứ hiện tượng vi phạm nào phát hiện được qua màn hình của máy cũng như phát hiện trực tiếp đều báo cáo kịp thời với lãnh đạo cửa khẩu trực tiếp chỉ đạo khi đã có đầy đủ chứng cứ chứng minh hành vi vi phạm và đều phải được xử lý nghiêm minh, công bằng, đúng pháp luật. Những hành vi vi phạm phức tạp, phạm pháp nghiêm trọng, đặc biệt các đối tượng vi phạm là tổ chức, cá nhân người nước ngoài phải báo cáo kịp thời với Cục trưởng Cục Hải quan thành phố xin ý kiến chỉ đạo.
- Đối tượng vi phạm là cán bộ, nhân viên hải quan, các đơn vị cơ quan hữu quan công tác trong sân bay cũng đều phải tiến hành lập hồ sơ ban đầu về những hành vi vi phạm như mọi trường hợp khác trước khi xử lý. Riêng đối với cán bộ, nhân viên hải quan, lãnh đạo hải quan cửa khẩu trực tiếp quyết định tạm đình chỉ công tác ngay sau khi lập hồ sơ ban đầu về việc vi phạm, đồng thời báo cáo ngay với Trưởng Hải quan cửa khẩu.
5. Tổ chức thực hiện
Các đồng chí Cục trưởng Cục Hải quan thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các đồng chí Cục trưởng, Vụ trưởng thuộc cơ quan Tổng cục chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện ngay theo nội dung Chỉ thị này.
|
Phan Văn Dĩnh (Đã ký) |
Chỉ thị 233/TCHQ-GSQL về công tác kiểm tra, giám sát bằng máy kiểm tra hải quan và camera tại sân bay quốc tế Nội Bài và Tân Sơn Nhất do Tổng cục trưởng Tổng Cục Hải Quan ban hành
Số hiệu: | 233/TCHQ-GSQL |
---|---|
Loại văn bản: | Chỉ thị |
Nơi ban hành: | Tổng cục Hải quan |
Người ký: | Phan Văn Dĩnh |
Ngày ban hành: | 18/11/1994 |
Ngày hiệu lực: | Đã biết |
Tình trạng: | Đã biết |
Văn bản đang xem
Chỉ thị 233/TCHQ-GSQL về công tác kiểm tra, giám sát bằng máy kiểm tra hải quan và camera tại sân bay quốc tế Nội Bài và Tân Sơn Nhất do Tổng cục trưởng Tổng Cục Hải Quan ban hành
Chưa có Video