Bộ lọc tìm kiếm

Tải văn bản

Lưu trữ Góp ý

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • Tiếng anh
  • Lược đồ

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
TỈNH THANH HÓA
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 33/2024/NQ-HĐND

Thanh Hóa, ngày 10 tháng 7 năm 2024

 

NGHỊ QUYẾT

VỀ VIỆC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG PHỤ LỤC NGÂN HÀNG TÊN ĐƯỜNG, PHỐ VÀ CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THANH HÓA BAN HÀNH KÈM THEO NGHỊ QUYẾT SỐ 90/2017/NQ-HĐND NGÀY 07 THÁNG 12 NĂM 2017 CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA
KHÓA XVIII, KỲ HỌP THỨ 20

Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 19 tháng 6 năm 2015; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 22 tháng 11 năm 2019;

Căn cứ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật ngày 22 tháng 6 năm 2015; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật ngày 18 tháng 6 năm 2020;

Căn cứ các Nghị định của Chính phủ: Số 34/2016/NĐ-CP ngày 14 tháng 5 năm 2016 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; số 154/2020/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14 tháng 5 năm 2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; số 59/2024/NĐ-CP ngày 25 tháng 5 năm 2024 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14 tháng 5 năm 2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định, số 154/2020/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2020 của Chính phủ;

Căn cứ Nghị định số 91/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2005 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng;

Căn cứ Thông tư số 36/2006/TT-BVHTTDL ngày 20 tháng 3 năm 2006 của Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) hướng dẫn thực hiện một số điều của Quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng ban hành kèm theo Nghị định số 91/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2005 của Chính phủ;

Xét Tờ trình số 141/TTr-UBND ngày 02 tháng 7 năm 2024 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc ban hành Nghị quyết sửa đổi, bổ sung phụ lục Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa ban hành kèm theo Nghị quyết số 90/2017/NQ-HĐND ngày 07 tháng 12 năm 2017 của Hội đồng nhân dân tỉnh; Báo cáo thẩm tra số 488/BC-VHXH ngày 05 tháng 7 năm 2024 của Ban Văn hóa - Xã hội Hội đồng nhân dân tỉnh; ý kiến thảo luận của đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh tại kỳ họp.

QUYẾT NGHỊ:

Điều 1. Bổ sung 838 tên vào Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa ban hành kèm theo Nghị quyết số 90/2017/NQ-HĐND ngày 07 tháng 12 năm 2017 của Hội đồng nhân dân tỉnh, cụ thể như sau:

1. Tên địa danh (Tên một địa điểm, vùng đất nổi tiếng, có giá trị tiêu biểu về truyền thống lịch sử - văn hóa của đất nước, của tỉnh Thanh Hóa; địa danh đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân; tên địa phương kết nghĩa hoặc có mối quan hệ đặc biệt với Thanh Hóa): 534.

2. Từ có ý nghĩa tiêu biểu: 11.

3. Tên di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh của tỉnh Thanh Hóa: 53.

4. Tên phong trào cách mạng (các sự kiện lịch sử, chiến thắng chống xâm lược có giá trị tiêu biểu của tỉnh Thanh Hóa): 20.

5. Tên danh nhân: 220, trong đó:

a) Danh nhân đất nước: 18.

b) Danh nhân, nhân vật lịch sử được suy tôn tại Thanh Hóa: 202, trong đó:

- Danh nhân, nhân vật lịch sử là người ngoài tỉnh có đóng góp cho Thanh Hóa, được suy tôn tại Thanh Hóa: 07.

- Danh nhân, nhân vật lịch sử Thanh Hóa: 163.

- Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân: 31.

- Anh hùng lao động: 01.

(Chi tiết tại Phụ lục số I kèm theo)

Điều 2. Sửa đổi 22 tên tại phụ lục Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa ban hành ban hành kèm theo Nghị quyết số 90/2017/NQ-HĐND ngày 07 tháng 12 năm 2017 của Hội đồng nhân dân tỉnh.

(Chi tiết tại Phụ lục số II kèm theo)

Điều 3. Tổ chức thực hiện

1. Giao Ủy ban nhân dân tỉnh căn cứ Nghị quyết này và các quy định hiện hành của pháp luật tổ chức triển khai thực hiện.

2. Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, các Ban của Hội đồng nhân dân tỉnh, các Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh và các đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh giám sát việc tổ chức triển khai, thực hiện Nghị quyết này.

Nghị quyết này đã được Hội đồng nhân dân tỉnh Thanh Hóa khóa XVIII, kỳ họp thứ 20 thông qua ngày 10 tháng 7 năm 2024, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 20 tháng 7 năm 2024./.

 


Nơi nhận:
- Như Điều 3;
- Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
- Chính phủ;
- Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du lịch;
- Cục Kiểm tra văn bản QPPL - Bộ Tư pháp;
- Thường trực Tỉnh ủy;
- Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh;
- Ủy ban MTTQ tỉnh và các sở, ban, ngành cấp tỉnh;
- Các VP: Tỉnh ủy, Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh, UBND tỉnh;
- Các sở, ban, ngành cấp tỉnh;
- TTr HĐND, UBND các huyện, thị xã, thành phố;
- Công báo tỉnh;
- Lưu: VT.

CHỦ TỊCH




Đỗ Trọng Hưng

 

 

PHỤ LỤC I

BỔ SUNG NGÂN HÀNG TÊN ĐƯỜNG, PHỐ VÀ CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THANH HÓA BAN HÀNH KÈM THEO NGHỊ QUYẾT SỐ 90/2017/NQ-HĐND NGÀY 07 THÁNG 12 NĂM 2017 CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH
(Kèm theo Nghị quyết số 33/2024/NQ-HĐND ngày 10 tháng 7 năm 2024 của Hội đồng nhân dân tỉnh Thanh Hóa)

(Tổng số: 838 tên các địa danh, sự kiện, danh nhân)

I. TÊN ĐỊA DANH (Tên một địa điểm, vùng đất nổi tiếng, có giá trị tiêu biểu về truyền thống lịch sử - văn hóa của đất nước, của tỉnh Thanh Hóa; địa danh đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân; tên địa phương kết nghĩa hoặc có mối quan hệ đặc biệt với Thanh Hóa): 534 địa danh.

1. Tên địa danh nổi tiếng của đất nước: 02 địa danh

STT

Tên địa danh

Tóm tắt lý lịch

Tên dùng

1

Hàm Long

Hàm Long[1] : Tên một di tích cách mạng nổi tiếng, đây là nơi thành lập chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên tại Việt Nam (gồm 7 người là Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Phong Sắc, Đỗ Ngọc Du, Trịnh Đình Cửu, Trần Văn Cung và Nguyễn Tuân do đồng chí Trần Văn Cung (Quốc Anh) làm Bí thư) (tháng 03/1929) - tổ chức tiền thân của Đảng; sự ra đời của Chi bộ Cộng sản - Chi bộ 5D Hàm Long, Hà Nội là một hạt nhân tạo nên sự kiện vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam, chấm dứt thời kỳ cách mạng trong tình trạng bế tắc, khủng hoảng về đường lối cứu nước; là sự kiện có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam, thúc đẩy sự phát triển của cách mạng cả nước trong đó có tỉnh Thanh Hóa. Từ năm 1959, địa chỉ này đã trở thành di tích lịch sử cách mạng kháng chiến của Hà Nội. Nay địa chỉ này thuộc di tích lịch sử cách mạng thuộc Bảo tàng Hà Nội.

Hàm Long

2

Sông Mã

Sông Mã là một con sông của Việt Nam và Lào có chiều dài 512 km, trong đó phần trên lãnh thổ Việt Nam dài 410 km và phần trên lãnh thổ Lào dài 102 km. Thanh Hóa là địa phận Sông Mã chạy qua theo hướng Tây Bắc - Đông Nam chảy qua các huyện phía Bắc của tỉnh, hội lưu với sông Chu rồi đổ ra Vịnh Bắc Bộ theo 2 nhánh (nhánh phía Nam vẫn gọi là sông Mã, nhánh phía Bắc gọi là sông Lèn) ở Lạch Hới (cửa Hới). Đây là con sông lớn, có tiềm năng lớn về phát điện; thực hiện nhiệm vụ cung cấp nước tưới cho khoảng 27.355 ha đất nông nghiệp (của 7 huyện: Cẩm Thủy, Bá Thước, Vĩnh Lộc, Yên Định, Thiệu Hóa, Hoằng Hóa và thành phố Thanh Hóa) và thực hiện chống lũ cho hạ du; Sông Mã có chiều dài chảy trên đất Thanh Hóa dài nhất, Sông Mã được ví là dòng sông hồn cốt của xứ Thanh. Hiện “Sông Mã” đã được dùng đặt tên cho một đại lộ trên địa bàn thành phố Thanh Hóa là Đại lộ Nam Sông Mã.

Sông Mã

2. Tên địa danh lịch sử - văn hóa của tỉnh Thanh Hóa[2]: 103 địa danh

STT

Tên địa danh

Tóm tắt lý lịch

Tên dùng

Ghi chú

1

Châu Lương Chánh

Châu Lương Chánh[3] tên châu cũ thuộc phủ Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa). Theo Đồng Khánh địa dư chí, châu Lương Chánh có 8 tổng (tổng Hoài Chính, tổng Quy Chính, tổng Thuận Chính, tổng Tòng Chính, tổng Tam Lô, tổng An Thọ, tổng Nhân Sơn, tổng Thiện Thổ), gồm 43 xã.

Lương Chánh

 

2

Cồn Chân Tiên

Cồn Chân Tiên thuộc thành phố Thanh Hóa, tên một địa điểm khảo cổ học thuộc phường Thiệu Khánh; đây là địa chỉ khảo cổ đánh dấu sự mở đầu cho giai đoạn văn hóa tiền Đông Sơn ở Thanh Hóa. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Chân Tiên

 

3

Di chỉ Gò Trũng

Di chỉ Gò Trũng thuộc xã Phú Lộc, huyện Hậu Lộc. Di chỉ khảo cổ học Gò Trũng được phát hiện năm 1976, khai quật năm 1977. Niên đại khoảng gần 5.000 năm cách ngày nay, thuộc hậu kỳ đá mới và là di chỉ văn hóa tiêu biểu cho giai đoạn muộn của văn hóa Đa Bút.

Gò Trũng

 

4

Huyện Cổ Chiến

Huyện Cổ Chiến là tên gọi cũ của huyện Tĩnh Gia (nay thuộc thị xã Nghi Sơn), là tên gọi trước đây của Thanh Đô trấn tỉnh Thanh Hóa, bao gồm 7 huyện, 3 châu (mỗi châu 4 huyện). Tĩnh Gia có tên gọi là huyện Cổ Chiến thuộc châu Cửu Chân.

Cổ Chiến

 

5

Huyện Lôi Dương và Tổng Lôi Dương

Huyện Lôi Dương[4] tên huyện cũ thuộc phủ Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Thọ Xuân). Theo Đồng Khánh địa dư chí, huyện Lôi Dương có 9 tổng (tổng Lôi Dương, tổng Kiên Thạch, tổng Nam Cai, tổng Thượng Cốc, tổng Bất Náo, tổng Tam Lộng, tổng Diên Hào, tổng Mục Sơn, tổng Bái Đô), gồm 177 xã, thôn, giáp, sở.

Lôi Dương

 

Tổng Lôi Dương[5] tên tổng cũ, là một trong chín tổng thuộc huyện Lôi Dương, phủ Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Thọ Xuân). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Lôi Dương có 29 xã, thôn, giáp.

6

Huyện Mỹ Hóa

Huyện Mỹ Hóa[6] tên huyện cũ thuộc phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Hoằng Hóa). Theo Đồng Khánh địa dư chí, huyện Mỹ Hóa có 4 tổng (tổng Dương Thủy, tổng Dương Sơn, tổng Lỗ Hương, tổng Đại Lý), gồm 78 xã, thôn, trang, sở.

Mỹ Hóa

 

7

Huyện Quảng Tế và Tổng Quảng Tế

Huyện Quảng Tế[7] tên huyện cũ thuộc phủ Quảng Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Thạch Thành). Theo Đồng Khánh địa dư chí, huyện Quảng Tế có 5 tổng (tổng Quảng Tế, tổng Án Đổ, tổng Cổ Biện, tổng Trường Cát, tổng Phú Ổ), gồm 30 xã, trại.

Quảng Tế

 

Tổng Quảng Tế[8] tên tổng cũ, là một trong năm tổng thuộc huyện Quảng Tế, phủ Quảng Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Thạch Thành). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Quảng Tế có 8 xã, trại.

8

Huyện Thụy Nguyên

Huyện Thụy Nguyên[9] tên huyện cũ thuộc phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Yên Định và huyện Ngọc Lặc). Theo Đồng Khánh địa dư chí, huyện Thụy Nguyên có 8 tổng (tổng Mật Vật, tổng Phù Chẩn, tổng Yên Trường, tổng Phú Hà, tổng Thử Cốc, tổng Ngọc Lặc, tổng Phùng Thịnh, tổng Quảng Thi), gồm 131 xã, thôn.

Thụy Nguyên

 

9

Huyện Tĩnh Gia

Huyện Tĩnh Gia nay thuộc thị xã Nghi Sơn. Năm Minh Mệnh thứ 19 (năm 1838), các huyện Ngọc Sơn, Nông Cống và Quảng Xương thuộc phủ Tĩnh Gia. Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, toàn bộ huyện Ngọc Sơn trở thành huyện Tĩnh Gia. Ngày 22/4/2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 933/NQ-UBTVQH14 về việc thành lập thị xã Nghi Sơn và các phường thuộc thị xã Nghi Sơn trên cơ sở toàn bộ huyện Tĩnh Gia, thị xã Nghi Sơn được thành lập với 16 phường, 15 xã.

Tĩnh Gia

 

10

Kinh đô Vạn Lại - Yên Trường

Kinh đô Vạn Lại - Yên Trường hay còn gọi với các tên khác như hành cung Vạn Lại, hành điện Vạn Lại đây là một địa danh thuộc huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hoa; là kinh đô của Đại Việt Nam triều nhà Lê trong giai đoạn Nam-Bắc triều phân tranh của hai họ Lê - Mạc. Tại đây, năm 1546, Trịnh Kiểm đã cho xây dựng hành điện, kinh đô tạm thời của triều đình và rước vua Lê về đó ở. Và cũng từ đó, thế Nam - Bắc triều được hình thành. Vạn Lại thực sự trở thành nơi đầu não của Nam triều trong một khoảng thời gian khá dài, đóng vai trò trung tâm của đời sống chính trị, văn hóa thời bấy giờ.

Cả Vạn Lại và Yên Trường nay đều thuộc đất huyện Thọ Xuân ngày nay.

Vạn Lại - Yên Trường[10]

Đã đặt tên đường

11

Làng Đạt Tài

Làng Đạt Tài thuộc xã Hoằng Hà, huyện Hoằng Hóa. Đây là địa chỉ hoạt động cách mạng của Tố Hữu trong thời kỳ đồng chí chỉ đạo phong trào cách mạng của hai huyện Hoằng Hóa và Hậu Lộc; làng Đạt Tài cũng là làng được biết đến với nghề truyền thống - nghề mộc nổi tiếng đất nước. Làng cũng đã được Chính phủ nước Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng bằng có công với nước năm 2001.

Đạt Tài

 

12

Tổng Án Đổ

Tổng An Đổ[11] tên tổng cũ, là một trong năm tổng thuộc huyện Quảng Tế, phủ Quảng Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Thạch Thành). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Án Đổ có 5 xã.

Án Đổ

 

13

Tổng An Thọ

Tổng An Thọ[12] tên tổng cũ, là một trong tám tổng thuộc châu Lương Chánh, phủ Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Lang Chánh). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng An Thọ có 5 xã.

An Thọ

 

14

Tổng Bái Đô

Tổng Bái Đô[13] tên tổng cũ, là một trong chín tổng thuộc huyện Lôi Dương, phủ Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Thọ Xuân). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Bái Đô có 8 xã.

Bái Đô

 

15

Tổng Bái Trạch

Tổng Bái Trạch[14] tên tổng cũ, là một trong năm tổng thuộc huyện Hoằng Hóa, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Hoằng Hóa). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Bái Trạch có 27 xã, thôn.

Bái Trạch

 

16

Tổng Bất Náo

Tổng Bất Náo[15] tên tổng cũ, là một trong chín tổng thuộc huyện Lôi Dương, phủ Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Thọ Xuân). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Bất Náo có 14 xã, thôn.

Bất Náo

 

17

Tổng Bỉnh Bút

Tổng Bỉnh Bút[16] tên tổng cũ, là một trong bảy tổng thuộc huyện Vĩnh Lộc, phủ Quảng Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Vĩnh Lộc). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Bỉnh Bút, huyện Vĩnh Lộc, phủ Quảng Hóa có 9 xã, thôn, trang.

Bỉnh Bút

 

Tổng Bỉnh Bút[17] tên tổng cũ, là một trong sáu tổng thuộc huyện Thạch Thành, phủ Quảng Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Thạch Thành). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Bỉnh Bút, huyện Thạch Thành, phủ Quảng Hóa có 6 xã.

18

Tổng Cao Mật và Làng Cao Mật

Tổng Cao Mật[18] tên tổng cũ, là một trong bảy tổng thuộc huyện Vĩnh Lộc, phủ Quảng Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Vĩnh Lộc). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Cao Mật có 13 xã, thôn.

Cao Mật

 

Làng Cao Mật thuộc thôn 3, xã Vĩnh Thành, huyện Vĩnh Lộc. Làng Cao Mật tên nôm là làng Giáng, đến thế kỷ XV có tên chữ là Cao Mật. Từ ngày 06 tháng 12 năm 2020, tên của thôn 3 được đổi thành khu phố Cao Mật - thị trấn Vĩnh Lộc.

19

Tổng Cao Vịnh

Tổng Cao Vịnh[19] tên tổng cũ, là một trong sáu tổng thuộc huyện Nga Sơn, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Nga Sơn). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Cao Vịnh có 16 xã, thôn.

Cao Vịnh

 

20

Tổng Cao Xá

Tổng Cao Xá[20] tên tổng cũ, là một trong mười hai tổng thuộc huyện Nông Cống, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Nông Cống và một phần đất huyện Như Xuân). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Cao Xá có 26 xã, thôn.

Cao Xá

 

21

Tổng Cổ Biện

Tổng Cổ Biện[21] tên tổng cũ, là một trong năm tổng thuộc huyện Quảng Tế, phủ Quảng Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Thạch Thành). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Cổ Biện có 5 xã.

Cổ Biện

 

22

Tổng Cổ Nam

Tổng Cổ Nam[22] tên tổng cũ, là một trong sáu tổng thuộc châu Quan Hóa, phủ Quảng Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Quan Hóa). Tổng Cổ Nam có 5 xã.

Cổ Nam

 

23

Tổng Cự Lữ

Tổng Cự Lữ[23] tên tổng cũ, là một trong chín tổng thuộc huyện Cẩm Thủy, phủ Quảng Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Cẩm Thủy, huyện Bá Thước và một phần huyện Quan Hóa). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Cự Lữ có 9 xã.

Cự Lữ

 

24

Tổng Đặc Kiệt

Tổng Đặc Kiệt[24] tên tổng cũ, là một trong sáu tổng thuộc châu Quan Hóa, phủ Quảng Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Quan Hóa). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Đặc Kiệt có 4 xã.

Đặc Kiệt

 

25

Tổng Đại Bối

Tổng Đại Bối[25] tên tổng cũ, là một trong chín tổng thuộc huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Đông Sơn). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Đại Bối có 14 xã, thôn, trang.

Đại Bối

 

26

Tổng Đại Lý và Làng Đại Lý

Tổng Đại Lý[26] tên tổng cũ, là một trong bốn tổng thuộc huyện Mỹ Hóa, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Hoằng Hóa). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Đại Lý có 19 xã, thôn, trang.

Đại Lý

 

Làng Đại Lý có từ đầu thế kỷ XIX thuộc tổng Đại Bối, huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Hóa, trấn Thanh Hóa. Năm 1900, đời Vua Thành Thái thứ 12, làng Đại Lý thuộc tổng Đại Bối, huyện Thụy Nguyên. Sau năm 1945, làng Đại Lý thuộc xã Liên Hoa, năm 1947, thuộc xã Đại Bái. Từ năm 1953 đến nay, làng Đại Lý thuộc xã Thiệu Vân, huyện Thiệu Hóa. Năm 2012, xã Thiệu Vân sáp nhập về thành phố Thanh Hóa.

27

Tổng Đăng Trường

Tổng Đăng Trường[27] tên tổng cũ, là một trong bốn tổng thuộc huyện Hậu Lộc, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Hậu Lộc). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Đăng Trường có 19 xã, thôn, sở.

Đăng Trường

 

28

Tổng Diên Hào

Tổng Diên Hào[28] tên tổng cũ, là một trong chín tổng thuộc huyện Lôi Dương, phủ Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Thọ Xuân). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Diên Hào có 24 xã.

Diên Hào

 

29

Tổng Đô Bái

Tổng Đô Bái[29] tên tổng cũ, là một trong sáu tổng thuộc huyện Nga Sơn, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Nga Sơn). Tổng Đô Bái có 15 xã, thôn, ấp.

Đô Bái

 

30

Tổng Đô Xá

Tổng Đô Xá[30] tên tổng cũ, là một trong mười hai tổng thuộc huyện Nông Cống, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Nông Cống và một phần đất huyện Như Xuân). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Đô Xá có 11 xã, thôn.

Đô Xá

 

31

Tổng Đông Bạn

Tổng Đông Bạn[31] tên tổng cũ, là một trong bốn tổng thuộc huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Hà Trung). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Đông Bạn có 11 xã, thôn, trang, phường.

Đông Bạn

 

32

Tổng Đồng Xá

Tổng Đồng Xá[32] tên tổng cũ, là một trong mười hai tổng thuộc huyện Nông Cống, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Nông Cống và một phần đất huyện Như Xuân). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Đồng Xá có 21 xã, thôn, trang.

Đồng Xá

 

33

Tổng Đông Yên

Tổng Đông Yên[33] tên tổng cũ, là một trong sáu tổng thuộc huyện Nga Sơn, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Nga Sơn). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Đông Yên có 14 xã, thôn, sở.

Đông Yên

 

34

Tổng Du Trường

Tổng Du Trường[34] tên tổng cũ, là một trong bốn tổng thuộc huyện Hậu Lộc, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Hậu Lộc). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Du Trường có 15 xã, thôn, trang, sở.

Du Trường

 

35

Tổng Dương Sơn

Tổng Dương Sơn[35] tên tổng cũ, là một trong bốn tổng thuộc huyện Mỹ Hóa, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Hoằng Hóa). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Dương Sơn có 21 xã, thôn, trang.

Dương Sơn

 

36

Tổng Dương Thủy

Tổng Dương Thủy[36] tên tổng cũ, là một trong bốn tổng thuộc huyện Mỹ Hóa, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Hoằng Hóa). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Dương Thủy có 23 xã, thôn.

Dương Thủy

 

37

Tổng Gia Dụ

Tổng Gia Dụ[37] tên tổng cũ, là một trong chín tổng thuộc huyện Cẩm Thủy, phủ Quảng Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Cẩm Thủy, huyện Bá Thước và một phần huyện Quan Hóa). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Gia Dụ có 8 xã.

Gia Dụ

 

38

Tổng Hành Vĩ

Tổng Hành Vĩ[38] tên tổng cũ, là một trong năm tổng thuộc huyện Hoằng Hóa, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Hoằng Hóa). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Hành Vĩ có 18 xã, thôn.

Hành Vĩ

 

39

Tổng Hòa Luật

Tổng Hòa Luật[39] tên tổng cũ, là một trong sáu tổng thuộc huyện Thạch Thành, phủ Quảng Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Thạch Thành). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Hòa Luật có 11 xã.

Hòa Luật

 

40

Tổng Hoài Chính

Tổng Hoài Chính[40] tên tổng cũ, là một trong tám tổng thuộc châu Lương Chánh, phủ Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Lang Chánh). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Hoài Chính có 4 xã.

Hoài Chính

 

41

Tổng Hữu Thủy

Tổng Hữu Thủy[41] tên tổng cũ, là một trong sáu tổng thuộc châu Quan Hóa, phủ Quảng Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Quan Hóa và huyện Bá Thước). Tổng Hữu Thủy có 5 xã.

Hữu Thủy

 

42

Tổng Kiên Thạch

Tổng Kiên Thạch[42] tên tổng cũ, là một trong chín tổng thuộc huyện Lôi Dương, phủ Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Thọ Xuân). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Kiên Thạch có 22 xã.

Kiên Thạch

 

43

Tổng La Miết

Tổng La Miết[43] tên tổng cũ, là một trong mười hai tổng thuộc huyện Nông Cống, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Nông Cống và một phần đất huyện Như Xuân). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng La Miết có 22 xã, thôn.

La Miết

 

44

Tổng Lạc Thiện

Tổng Lạc Thiện[44] tên tổng cũ, là một trong mười hai tổng thuộc huyện Nông Cống, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Nông Cống và một phần đất huyện Như Xuân). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Lạc Thiện có 20 xã, thôn, sở.

Lạc Thiện

 

45

Tổng Lai Triều

Tổng Lai Triều[45] tên tổng cũ, là một trong mười hai tổng thuộc huyện Nông Cống, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Nông Cống và một phần đất huyện Như Xuân). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Lai Triều có 13 xã, thôn.

Lai Triều

 

46

Tổng Lân Du

Tổng Lân Du[46] tên tổng cũ, là một trong mười hai tổng thuộc huyện Nông Cống, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc đất huyện Nông Cống và một phần đất huyện Như Xuân). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Lân Du có 7 xã.

Lân Du

 

47

Tổng Lãng Lăng

Tổng Lãng Lăng[47] tên tổng cũ, là một trong mười hai tổng thuộc huyện Nông Cống, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Nông Cống và một phần đất huyện Như Xuân). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Lãng Lăng có 5 xã.

Lãng Lăng

 

48

Tổng Lê Nguyễn

Tổng Lê Nguyễn thuộc các xã Đông Yên, Đông Khê, Đông Minh, Đông Thịnh, Đông Tiến, thị trấn Rừng Thông, huyện Đông Sơn. Đây là tên một tổng của huyện Đông Sơn đầu thế kỷ XIX, đến năm Minh Mệnh thứ 5 (1824) đổi tên thành tổng Thanh Hoa, sau đổi thành tổng Tuân Hóa.

Lê Nguyễn

 

49

Tổng Liên Cừ

Tổng Liên Cừ[48] tên tổng cũ, là một trong bốn tổng thuộc huyện Hậu Lộc, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Hậu Lộc). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Liên Cừ có 16 xã, thôn, trang.

Liên Cừ

 

50

Tổng Liên Trì

Tổng Liên Trì[49] tên tổng cũ, là một trong bảy tổng thuộc huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc thị xã Nghi Sơn). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Liên Trì có 39 xã, thôn.

Liên Trì

 

51

Tổng Lỗ Hương

Tổng Lỗ Hương[50] tên tổng cũ, là một trong bốn tổng thuộc huyện Mỹ Hóa, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Hoằng Hóa). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Lỗ Hương có 15 xã, thôn, sở.

Lỗ Hương

 

52

Tổng Lực Canh

Tổng Lực Canh[51] tên tổng cũ, là một trong sáu tổng thuộc châu Quan Hóa, phủ Quảng Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Quan Hóa và huyện Bá Thước). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Lực Canh có 4 xã.

Lực Canh

 

53

Tổng Mật Vật

Tổng Mật Vật[52] tên tổng cũ, là một trong tám tổng thuộc huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Yên Định và huyện Ngọc Lặc). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Mật Vật có 26 xã, thôn, trang, giáp.

Mật Vật

 

54

Tổng Mậu Lâm

Tổng Mậu Lâm[53] tên tổng cũ, một trong sáu tổng thuộc huyện Nga Sơn, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Nga Sơn). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Mậu Lâm có 23 xã, thôn.

Mậu Lâm

 

55

Tổng Mông Sơn

Tổng Mông Sơn[54] tên tổng cũ, là một trong chín tổng thuộc huyện Cẩm Thủy, phủ Quảng Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Cẩm Thủy, huyện Bá Thước và một phần huyện Quan Hóa). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Mông Sơn có 10 xã.

Mông Sơn

 

56

Tổng Mục Sơn

Tổng Mục Sơn[55] tên tổng cũ, là một trong chín tổng thuộc huyện Lôi Dương, phủ Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Thọ Xuân). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Mục Sơn có 7 xã, thôn.

Mục Sơn

 

57

Tổng Nam Bạn

Tổng Nam Bạn[56] tên tổng cũ, là một trong bốn tổng thuộc huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Hà Trung). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Nam Bạn có 15 xã, thôn.

Nam Bạn

 

58

Tổng Nam Cai

Tổng Nam Cai[57] tên tổng cũ, là một trong bảy tổng thuộc huyện Vĩnh Lộc, phủ Quảng Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Vĩnh Lộc). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Nam Cai, huyện Vĩnh Lộc, phủ Quảng Hóa có 5 xã.

Nam Cai

 

Tổng Nam Cai[58] cũng là tên tổng cũ, là một trong chín tổng thuộc huyện Lôi Dương, phủ Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Thọ Xuân). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Nam Cai, huyện Lôi Dương, phủ Thọ Xuân có 18 xã, thôn.

59

Tổng Ngọ Xá

Tổng Ngọ Xá[59] tên tổng cũ, là một trong bảy tổng thuộc huyện Vĩnh Lộc, phủ Quảng Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Vĩnh Lộc). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Ngọ Xá có 15 xã, thôn.

Ngọ Xá

 

60

Tổng Ngọc Động

Tổng Ngọc Động[60] tên tổng cũ, là một trong sáu tổng thuộc huyện Thạch Thành, phủ Quảng Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Thạch Thành). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Ngọc Động có 9 xã.

Ngọc Động

 

61

Tổng Ngọc Xuyết

Tổng Ngọc Xuyết[61] tên tổng cũ, là một trong năm tổng thuộc huyện Hoằng Hóa, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Hoằng Hóa). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Ngọc Xuyết có 29 xã, thôn.

Ngọc Xuyết

 

62

Tổng Như Lăng

Tổng Như Lăng thuộc huyện Như Xuân, là tên một tổng của châu Như Xuân, là địa bàn hoạt động của nghĩa quân Cầm Bá Thước trong phong trào Cần Vương chống Pháp.

Như Lăng

 

63

Tổng Phi Lai

Tổng Phi Lai[62] tên tổng cũ, là một trong sáu tổng thuộc huyện Nga Sơn, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Nga Sơn). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Phi Lai có 19 xã, thôn, trang.

Phi Lai

 

64

Tổng Phù Chẩn

Tổng Phù Chẩn[63] tên tổng cũ, là một trong tám tổng thuộc huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Yên Định và huyện Ngọc Lặc). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Phù Chẩn có 13 xã, thôn.

Phù Chẩn

 

65

Tổng Phú Hà

Tổng Phú Hà[64] tên tổng cũ, là một trong tám tổng thuộc huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Yên Định và huyện Ngọc Lặc). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Phú Hà có 11 xã, thôn, trại.

Phú Hà

 

66

Tổng Phú Ổ

Tổng Phú Ổ[65] tên tổng cũ, là một trong năm tổng thuộc huyện Quảng Tế, phủ Quảng Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Thạch Thành). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Phú Ổ có 5 xã.

Phú Ổ

 

67

Tổng Phùng Thịnh

Tổng Phùng Thịnh[66] tên tổng cũ, là một trong tám tổng thuộc huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Yên Định và huyện Ngọc Lặc). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Phùng Thịnh có 14 xã, thôn, trang, giáp.

Phùng Thịnh

 

68

Tổng Quan Hoàng và Chợ Quan Hoàng

Tổng Quan Hoàng[67] tên tổng cũ, là một trong chín tổng thuộc huyện Cẩm Thủy, phủ Quảng Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Cẩm Thủy, huyện Bá Thước và một phần huyện Quan Hóa). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Quan Hoàng có 14 xã, thôn.

Quan Hoàng

 

Chợ Quan Hoàng thuộc huyện Vĩnh Lộc. Đây là chợ quê truyền thống có từ khá lâu đời ở vùng đất giáp ranh hai huyện Cẩm Thủy và Vĩnh Lộc đã từng được dân gian gần, xa của xứ Thanh ví gọi là chợ tình của người Mường - Việt.

69

Tổng Quân Nhân

Tổng Quân Nhân là tên một tổng của châu Như Xuân, là địa bàn hoạt động của nghĩa quân trong phong trào Cần Vương chống Pháp.

Quân Nhân

 

Tổng Quân Nhân[68] tên tổng cũ, là một trong bốn tổng thuộc châu Thường Xuân, phủ Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Thường Xuân). Tổng Quân Nhân có 7 xã.

70

Tổng Quang Chiêm

Tổng Quang Chiêm[69] tên tổng cũ, là một trong sáu tổng thuộc châu Quan Hóa, phủ Quảng Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Quan Hóa và huyện Bá Thước). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Quang Chiêm có 4 xã.

Quang Chiêm

 

71

Tổng Quang Chiếu

Tổng Quang Chiếu[70] tên tổng cũ, là một trong chín tổng thuộc huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc phần lớn huyện Đông Sơn và thành phố Thanh Hóa). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Quang Chiếu có 19 xã, thôn.

Quang Chiếu

 

72

Tổng Quảng Thi

Tổng Quảng Thi[71] tên tổng cũ, là một trong tám tổng thuộc huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Yên Định và huyện Ngọc Lặc). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Quảng Thi có 26 xã, thôn.

Quảng Thi

 

73

Tổng Quy Chính

Tổng Quy Chính[72] tên tổng cũ, là một trong tám tổng thuộc châu Lương Chánh, phủ Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Lang Chánh). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Quy Chính có 6 xã.

Quy Chính

 

74

Tổng Sa Lung

Tổng Sa Lung[73] tên tổng cũ, là một trong chín tổng thuộc huyện Cẩm Thủy, phủ Quảng Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Cẩm Thủy, huyện Bá Thước và một phần huyện Quan Hóa). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Sa Lung có 5 xã.

Sa Lung

 

75

Tổng Sóc Sơn và Làng Sóc Sơn

Tổng Sóc Sơn[74] tên tổng cũ, là một trong bảy tổng thuộc huyện Vĩnh Lộc, phủ Quảng Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Vĩnh Lộc). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Sóc Sơn có 6 xã, thôn.

Sóc Sơn

 

Làng Sóc Sơn thuộc xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc, là quê hương của Trịnh Kiểm. Ông là một tướng tài giúp vua Lê dẹp Mạc thành công nên được phong chức Đại tướng quân, Lưỡng Quốc công và Thượng tướng Thái Quốc công. Trịnh Kiểm đã có công tạo ra hình thái Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam Vua Lê - Chúa Trịnh và ổn định chính trị, mở rộng bờ cõi, tổ chức thi cử kén chọn nhân tài, phát triển kinh tế nông nghiệp, mở rộng giao lưu buôn bán, tạo nên 12 đời Chúa giúp vua điều hành đất nước tạo nên thời Lê Trung Hưng (1533-1788).

76

Tổng Tam Lô

Tổng Tam Lô[75] tên tổng cũ, là một trong tám tổng thuộc châu Lương Chánh, phủ Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Lang Chánh). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Tam Lô có 5 xã.

Tam Lô

 

77

Tổng Tam Lộng

Tổng Tam Lộng[76] tên tổng cũ, là một trong chín tổng thuộc huyện Lôi Dương, phủ Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Thọ Xuân). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Tam Lộng có 30 xã, thôn.

Tam Lộng

 

78

Tổng Thạch Giản

Tổng Thạch Giản[77] tên tổng cũ, là một trong sáu tổng thuộc huyện Nga Sơn, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Nga Sơn). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Thạch Giản có 20 xã, thôn.

Thạch Giản

 

79

Tổng Thanh Xá và Làng Thanh Xá

Tổng Thanh Xá[78] tên tổng cũ, là một trong bảy tổng thuộc huyện Vĩnh Lộc, phủ Quảng Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Vĩnh Lộc). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Thanh Xá có 7 xã, thôn, trang.

Thanh Xá

 

Làng Thanh Xá thuộc xã Tân Dân trước năm 1945 thuộc phủ Ngọc Sơn, tổng Sen Trì (Liên Trì). Làng Thanh Xá là một trong sáu làng của Tân Dân lúc bấy giờ, nay làng Thanh Xá có tên gọi là tổ dân phố Thanh Minh.

80

Tổng Thiện Thổ

Tổng Thiện Thổ[79] tên tổng cũ, là một trong tám tổng thuộc châu Lương Chánh, phủ Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Lang Chánh). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Thiện Thổ có 5 xã.

Thiện Thổ

 

81

Tổng Thiết Ống

Tổng Thiết Ống[80] tên tổng cũ, là một trong chín tổng thuộc huyện Cẩm Thủy, phủ Quảng Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Cẩm Thủy, huyện Bá Thước và một phần huyện Quan Hóa). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Thiết Ống có 6 xã.

Thiết Ống

 

82

Tổng Thủ Chính

Tổng Thủ Chính thuộc huyện Quảng Xương từ sau đời Đồng Khánh (1888) cho đến trước năm 1945, nay thuộc các xã Quảng Lưu, Quảng Giao, Quảng Lộc, Quảng Lợi, Quảng Thạch, Quảng Nham, Quảng Chính, Quảng Trung.

Thủ Chính

 

83

Tổng Thử Cốc

Tổng Thử Cốc[81] tên tổng cũ, là một trong tám tổng thuộc huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Yên Định và huyện Ngọc Lặc). Tổng Thử Cốc có 22 xã, thôn, trang.

Thử Cốc

 

84

Tổng Thủ Hộ

Tổng Thủ Hộ[82] tên tổng cũ, là một trong bốn tổng thuộc huyện Quảng Xương, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Quảng Xương). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Thủ Hộ có 28 xã, thôn, sở.

Thủ Hộ

 

85

Tổng Thuận Chính

Tổng Thuận Chính[83] tên tổng cũ, là một trong tám tổng thuộc châu Lương Chánh, phủ Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Lang Chánh). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Thuận Chính có 4 xã.

Thuận Chính

 

86

Tổng Thượng Bạn

Tổng Thượng Bạn[84] tên tổng cũ, là một trong bốn tổng thuộc huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Hà Trung). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Thượng Bạn có 16 trang, giáp.

Thượng Bạn

 

87

Tổng Thượng Cốc

Tổng Thượng Cốc[85] tên tổng cũ, là một trong chín tổng thuộc huyện Lôi Dương, phủ Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Thọ Xuân). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Thượng Cốc có 25 xã, thôn.

Thượng Cốc

 

88

Tổng Tòng Chính

Tổng Tòng Chính[86] tên tổng cũ, là một trong tám tổng thuộc châu Lương Chánh, phủ Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Lang Chánh). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Tòng Chính có 9 xã.

Tòng Chính

 

89

Tổng Trạc Nhật

Tổng Trạc Nhật[87] tên tổng cũ, là một trong sáu tổng thuộc huyện Thạch Thành, phủ Quảng Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Thạch Thành). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Trạc Nhật có 16 xã.

Trạc Nhật

 

90

Tổng Trung Bạn

Tổng Trung Bạn[88] tên tổng cũ, là một trong bốn tổng thuộc huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Hà Trung). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Trung Bạn có 25 xã, thôn.

Trung Bạn

 

91

Tổng Tự Cường

Tổng Tự Cường[89] tên tổng cũ, là một trong sáu tổng thuộc huyện Thạch Thành, phủ Quảng Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Thạch Thành). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Tự Cường có 11 xã, trại.

Tự Cường

 

92

Tổng Từ Minh

Tổng Từ Minh[90] tên tổng cũ, là một trong năm tổng thuộc huyện Hoằng Hóa, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Hoằng Hóa). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Từ Minh có 14 xã, thôn.

Từ Minh

 

93

Tổng Tuần La

Tổng Tuần La[91] tên tổng cũ, là một trong bảy tổng thuộc huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc thị xã Nghi Sơn). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Tuần La có 34 xã, thôn, phường, giáp.

Tuần La

 

94

Tổng Vân Lung

Tổng Vân Lung[92] tên tổng cũ, là một trong sáu tổng thuộc huyện Thạch Thành, phủ Quảng Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Thạch Thành). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Vân Lung có 6 xã.

Vân Lung

 

95

Tổng Vận Quy

Tổng Vận Quy[93] tên tổng cũ, là một trong chín tổng thuộc huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc phần lớn huyện Đông Sơn và thành phố Thanh Hóa). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Vận Quy có 18 xã, thôn.

Vận Quy

 

96

Tổng Vân Tập và Làng Vân Tập

Tổng Vân Tập là tên tổng cũ, ra đời cuối thế kỷ XIX, là một trong 5 tổng của huyện Cẩm Thủy, phủ Quảng Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Cẩm Thủy, huyện Bá Thước và một phần huyện Quan Hóa). Tổng Vân Tập có 6 xã.

Vân Tập

 

Làng Vân Tập thuộc thành phố Thanh Hóa, làng có từ đời Vua Đồng Khánh (1885-1888) thuộc tổng Đại Bối, huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Hóa, trấn Thanh Hóa. Năm 1900 đời Vua Thành Thái thứ 12, làng Vân Tập thuộc tổng Đại Bối, huyện Thụy Nguyên. Sau năm 1945, làng Vân Tập thuộc xã Liên Hoa, năm 1947 thuộc xã Đại Bái. Từ năm 1953 đến nay, làng Vân Tập thuộc xã Thiệu Vân, huyện Thiệu Hóa. Năm 2012, xã Thiệu Vân sáp nhập về thành phố Thanh Hóa. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

97

Tổng Vạn Thiện

Tổng Vạn Thiện[94] tên tổng cũ, một trong mười hai tổng thuộc huyện Nông Cống, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Nông Cống và một phần huyện Như Xuân). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Vạn Thiện có 23 xã, thôn.

Vạn Thiện

 

98

Tổng Vân Trai

Tổng Vân Trai[95] tên tổng cũ, là một trong chín tổng thuộc huyện Cẩm Thủy, phủ Quảng Hóa, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Cẩm Thủy, huyện Bá Thước và một phần huyện Quan Hóa). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Vân Trai, huyện Cẩm Thủy, phủ Quảng Hóa có 10 xã.

Vân Trai

 

Tổng Vân Trai[96] cũng là tên tổng cũ, là một trong bảy tổng thuộc huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc thị xã Nghi Sơn). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Vân Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia có 31 xã, thôn, giáp, tộc.

99

Tổng Văn Trinh

Tổng Văn Trinh[97] tên tổng cũ, là một trong bảy tổng thuộc huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc thị xã Nghi Sơn). Tổng Văn Trinh có 27 xã, thôn.

Văn Trinh

 

100

Tổng Văn Trường

Tổng Văn Trường[98] tên tổng cũ, là một trong bảy tổng thuộc huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc thị xã Nghi Sơn). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Văn Trường có 43 xã, thôn, giáp.

Văn Trường

 

101

Tổng Văn Xá và Làng Văn Xá

Tổng Văn Xá[99] tên tổng cũ, là một trong mười hai tổng thuộc huyện Nông Cống, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc huyện Nông Cống và một phần huyện Như Xuân). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Văn Xá có 28 xã, thôn, giáp.

Văn Xá

 

Làng Văn Xá thuộc thành phố Thanh Hóa, làng có từ thế kỷ XIX. Trước năm 1945, làng Văn Xá thuộc tổng Lưu Thanh, phủ Quảng Xương. Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, làng Văn Xá thuộc xã Trần Hưng Đạo, huyện Quảng Xương.

102

Tổng Viễn Chiếu

Tổng Viễn Chiếu thuộc huyện Đông Sơn. Trước năm 1945, năm Bảo Đại thứ 3 (1928), tổng Quang Chiếu đổi tên thành tổng Viễn Chiếu.

Viễn Chiếu

 

103

Tổng Yên Thái

Tổng Yên Thái[100] tên tổng cũ, là một trong bảy tổng thuộc huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa (nay thuộc thị xã Nghi Sơn). Theo Đồng Khánh địa dư chí, tổng Yên Thái có 47 xã, thôn, trang.

Yên Thái

 

3. Địa danh đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân; tên địa phương kết nghĩa hoặc có mối quan hệ đặc biệt với Thanh Hóa: 429 tên

3.1. Huyện Bá Thước: 16 địa danh

STT

Tên địa danh

Tóm tắt lý lịch

Tên dùng

1

Bản Kình Lộng

Bản Kình Lộng là một trong những địa danh ghi dấu hoạt động và chiến thắng quân Minh của nghĩa quân Lam Sơn. Nơi đây, vào năm Tân Sửu (1421) người con thứ của Lê Lai là Lê Lộ từng tham gia các trận đánh ở sách Ba Lẫm, ải Kình Lộng đánh bại Trần Trí được thăng là Tả Trung Quân Tổng đốc Chư quân sự. Bản Kình Lộng nay thuộc xã Điền Lư, huyện Bá Thước.

Kình Lộng

2

Chợ Vạn Cha

Chợ Vạn Cha nay thuộc làng Cha, xã Thiết Kế, huyện Bá Thước, chợ bên bờ sông Mã. Chợ là địa điểm (trạm) đón tiếp bộ đội, dân công tham gia chiến dịch Điện Biên.

Vạn Cha

3

Đèo Úng Ải

Đèo Úng Ải là đèo nằm trên địa bàn giao nhau giữa Mường ông và Mường Ai xưa, nay là nơi tiếp giáp giữa hai xã Ban Công và xã Thiết Ống, huyện Bá Thước. Đây là địa danh gắn liền với hoạt động của nghĩa quân Lam Sơn trong cuộc chiến chống quân Minh xâm lược. Cuối năm 1421, tham tướng Minh là Trần Trí cất 10 vạn quân, bao gồm cả quân viễn chinh người Minh và ngụy binh từ Đông Quan tiến vào Thanh Hóa đánh quân Lam Sơn; cuộc giao chiến giữa nghĩa quân của Lê Lợi và quân Minh diễn ra ở đèo Úng Ải, quân Minh đại bại. Trần Trí cùng tàn quân thoát chết, rút lui.

Úng Ải

4

Dốc Bàn Đào

Dốc Bàn Đào thuộc địa phận Điền Lư, Điền Quang, huyện Bá Thước. Một địa bàn động - sách ở miền núi phía Tây Thanh Hóa. Đây là địa điểm mà các nhà sử học xác định là địa điểm Mường Đào - Nơi đây từng là thành trì trong cuộc chiến chống quân Lương giữ nước Vạn Xuân. Vào thế kỷ thứ VI (năm 545), Trần Bá Tiên mang binh lực lớn từ ngoài Bắc tiến vào, để bảo toàn lực lượng, Lý Thiên Bảo (anh trai của vua Lý Nam Đế) đã rút quân về khu vực rừng núi phía Tây Ái Châu (Mường Đào) để xây dựng thành trì chống lại nhà Lương. Hiện nay ở gần Điền Lư, Điền Quang, trên con đường chính đi ngược về phía Cành Nàng (thị trấn huyện Bá Thước) vẫn còn cái dốc mang tên là dốc Bàn Đào.

Bàn Đào

5

Đồi Lai Láng

Đồi Lai Láng thuộc huyện Bá Thước. Đây là địa bàn hoạt động của nghĩa quân Lam Sơn. Từ thời xa xưa, vị trí này đều có tên gọi liên quan đến quá trình khai thác kim loại quý, đặc biệt là vàng. Tại địa điểm này, trong truyền thuyết ghi chép nơi xuất hiện khí cụ người Mường gọi cây Chu Đá, lá Chu Đồng - hình tượng cây Chu Đá, lá Chu Đồng là biểu trung của công cụ kim loại đồng do con người mới phát hiện ra[101]. Lê Lợi đã từng đứng ở vị trí cây Chu Đá trên đỉnh đồi Lai Láng để quan sát quân giặc đóng ở đồn Quan Da. Sau khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn giành thắng lợi, dân Mường Muồn đã dựng lên ngôi đền thờ vua Lê ở trên đỉnh đồi Lai Láng.

Lai Láng

6

Hang Niên Kỷ

Hang Niên Kỷ là hang nằm giữa xã Văn Nho và xã Kỳ Tân thuộc huyện Bá Thước, căn cứ chống Pháp của Hà Văn Nho, Tống Duy Tân lãnh đạo.

Niên Kỷ

7

Hồ Duồng Công

Hồ Duồng Công thuộc xã Điền Hạ, huyện Bá Thước, là công trình thủy lợi lớn được xây dựng năm 1961. Hồ được ví như một “Vịnh Hạ Long” thu nhỏ của Bá Thước. Hồ có diện tích mặt hồ 57 ha, độ sâu 40 m. Từ trên cao nhìn xuống Duồng Công là một bức tranh sơn thủy hữu tình. Nơi đây có nhiều dãy núi có độ cao 1.000 m kéo dài, có nhiều hang động rất đẹp in bóng xuống mặt hồ. Cảnh sắc thiên nhiên nguyên sơ cùng những nét văn hóa truyền thống của cư dân bản địa biến Duồng Công trở thành một điểm hấp dẫn khách du lịch.

Duồng Công

8

Làng Tráng

Làng Tráng thuộc xã Lâm Xa, huyện Bá Thước. Tại làng Tráng, năm 1984, trong cuộc điều tra khảo cổ miền Tây tỉnh Thanh Hóa, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã phát hiện một loạt hang động cổ sinh hóa thạch và qua các đợt khai quật nhiều hiện vật được xác định là công cụ của “chủ nhân” văn hóa Sơn Vi muộn, kéo dài đến văn hóa Hòa Bình. Năm 2013, hang Làng Tráng được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa xếp hạng là di tích khảo cổ học theo Quyết định số 4788/QĐ-UBND ngày 31/12/2013.

Làng Tráng

9

Mường[102] Ai

Mường Ai thuộc xã Hạ Trung, huyện Bá Thước, là vùng Mường cổ của người Mường Trong được nhắc đến nhiều trong sử thi Đẻ đất, đẻ nước.

Mường Ai

10

Mường Khô

Mường Khô thuộc huyện Bá Thước là Điền Lư ngày nay. Đây là vùng đất cổ với dấu vết của nền văn hóa Sơn Vi. Vùng đất này lưu giữ nhiều dấu tích văn hóa của người Mường, trong đó có lễ hội Mường Khô gắn với Quận Công Khâm sai Chánh thống lãnh Thượng đạo trấn Thanh Hóa Hà Công Thái - là người có công lao rất lớn đối với vương triều Nguyễn.

Mường Khô

11

Mường Khoòng

Mường Khoòng thuộc huyện Bá Thước, là Mường cổ của người Thái, tên hành chính là tổng Cổ Lũng, quê hương của danh nhân Hà Thọ Lộc - là đại thần có công giúp nhà Lê Trung Hưng thời chiến tranh Lê - Mạc trong lịch sử Việt Nam.

Mường Khoòng

12

Mường Khôông

Mường Khôông[103] (xã Lương Nội xưa) thuộc tổng Sa Lung. Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 có tên là xã Quý Lương. Năm 1964 chia xã Quý Lương thành 3 xã (Lương Nội, Lương Trung, Lương Ngoại). Đây là địa danh có từ xưa, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Mường Khôông

13

Mường Ống

Mường Ống thuộc xã Thiết Ống, huyện Bá Thước ngày nay, là Mường cổ của người Mường Trong được nhắc đến nhiều trong sử thi Đẻ đất, đẻ nước.

Mường Ống

14

Núi Bù Mộng

Núi Bù Mộng thuộc xã Điền Thượng, huyện Bá Thước. Đây là một trong những địa danh gắn với sự kiện chiến thắng Bù Mộng của nghĩa quân Lam Sơn diễn ra tháng 11 năm 1420.

Bù Mộng

15

Thác Hiêu

Thác Hiêu thuộc địa phận xã Cổ Lũng, huyện Bá Thước. Thác nằm trong khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông, có phong cảnh đẹp thác nước, núi rừng, bản làng kết hợp với nhau thành không gian cảnh quan sơn thủy hữu tình. Với thắng cảnh đẹp, Thác Hiêu là địa danh được nhiều người biết đến, đã thu hút đông đảo du khách đến tham quan.

Thác Hiêu

16

Trại Ba Lẫm

Trại Ba Lẫm thuộc Chiềng Lẫm, xã Điền Lư, huyện Bá Thước. Đây là căn cứ của nghĩa quân Lam Sơn trong những năm 1420 - 1423 do Bình Định Vương Lê Lợi lãnh đạo. Theo sử sách cho biết, tháng 12/1420, Lê Lợi tiến quân đóng ở sách Ba Lẫm thuộc huyện Lỗi Giang (vùng Quan Hóa, Bá Thước). Tại thôn Chiềng Lẫm còn lưu truyền sự tích cây mít buộc voi của nhà vua (Cân mịt tanh voi).

Ba Lẫm

3.2. Thị xã Bỉm Sơn: 04 địa danh

STT

Tên địa danh

Tóm tắt lý lịch

Tên dùng

1

Cầu Chuyên Gia

Cầu Chuyên Gia thuộc khu phố 3, phường Đông Sơn, thị xã Bỉm Sơn. Tên gọi quen thuộc, đã in sâu vào tiềm thức của Nhân dân thị xã Bỉm Sơn; vị trí bên cạnh khu tập thể các chuyên gia của nhà máy xi măng Bỉm Sơn đã sinh sống và làm việc.

Chuyên Gia

2

Cầu Đo Đạc

Cầu Đo Đạc thuộc phường Ba Đình, thị xã Bỉm Sơn, cầu vượt qua suối Đo Đạc, nối đường Trần Phú, tên gọi quen thuộc đã in sâu vào tiềm thức của Nhân dân thị xã Bỉm Sơn.

Đo Đạc

3

Chùa Trạch Lâm

Chùa Trạch Lâm thuộc thị xã Bỉm Sơn (chùa Khánh Quang). Theo sử sách cũ thì ngôi chùa được kiến trúc vào khoảng thế kỷ XVII do bà Nguyễn Thị Ngọc Tú, con gái Đoan Quận công Nguyễn Hoàng và là Chính Phi của Chúa Trịnh Tráng xây dựng. Ngôi chùa hiện nay không còn nữa mà chỉ còn là những hồi âm trên sách vở... Nhưng nhờ vào chính sách Tôn giáo và quyền tự do tín ngưỡng của Đảng và Chính phủ, ngôi chùa Khánh Quang được xây dựng lại một cách quy mô, linh thiêng và thành kính trên một khu đồi, gần nền chùa cũ, ngõ hầu thỏa mãn cuộc sống tâm linh của con người luôn hướng về cái thiện...

Chùa Trạch Lâm đã được đón tiếp Chuyết Công Hòa thượng (1590 - 1644) pháp hiệu là Chuyết Chuyết, người đời Minh - Trung Quốc và cùng đệ tử thân tín là Thiền Sư Minh Hành (1595 - 1659) sang thuyết pháp ở Việt Nam. Vào khoảng năm 1630, Minh Hành theo sư phụ từ vùng Quảng Nam - Thuận Hóa ra Thăng Long (Hà Nội) đã dừng chân trụ trì tại chùa Trạch Lâm, Thanh Hóa. Sau đó Chuyết Chuyết Thiền sư chuyển về trụ trì tại chùa Ninh Phúc (Bắc Ninh). Năm 1644, Chuyết Chuyết Hòa thượng viên tịch. Nhục thân của Ngài được đặt trong khám tại chùa Bút Tháp.

Trạch Lâm

4

Xã Hà Lan

Xã Hà Lan tên một đơn vị hành chính cấp xã cũ thuộc thị xã Bỉm Sơn. Đất Hà Lan[104] xưa thuộc vùng Kẻ Gạo - làng Gạo là một làng Việt cổ. Xã Hà Lan có đình làng Gạo - nơi thờ Tô Đại Liêu tôn Thần, Thái úy Tô Hiến Thành - Thượng đẳng phúc thần. Tên địa danh người dân đã quen dùng từ xa xưa, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân. Ngày 01/12/2019, xã Hà Lan được sáp nhập vào phường Đông Sơn theo Nghị quyết số 786/NQ-UBTVQH14 ngày 16 tháng 10 năm 2019 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Thanh Hóa.

Hà Lan

3.3. Huyện Cẩm Thủy: 03 địa danh.

STT

Tên địa danh

Tóm tắt lý lịch

Tên dùng

1

Làng Én

Làng Én[105] (mường Én) thuộc xã Cẩm Quý, huyện Cẩm Thủy. Xã Cẩm Quý xưa thuộc tổng Mông Sơn. Vùng đất có bề dày lịch sử văn hóa, đặc biệt xưa kia người Mường ở đây thường sử dụng cồng chiêng trong việc tập hợp dân làng vận chuyển gỗ, xây dựng nhà cửa, đuổi thú dữ, giặc giã, báo tang, cúng lễ, cưới xin, chúc tết, hội lễ, săn thú, đánh bắt cá... Làng có ngôi đình (đình làng Én) được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh tại Quyết định số 3014/QĐ-UBND ngày 14/09/2012.

Làng Én

2

Làng Hạ

Làng Hạ thuộc xã Cẩm Sơn, huyện Cẩm Thủy, có di chỉ khảo cổ học Làng Hạ theo Quyết định số 83/QĐ-SVHTT ngày 25/4/1993.

Làng Hạ

3

Làng Tường Yên

Làng Tường Yên[106], trước kia có tên là Biện Sách Thượng (hay còn gọi là làng Bịn) có từ thời Hậu Lê, nay thuộc xã Cẩm Vân, huyện Cẩm Thủy. Nơi đây có đình làng Tường Yên được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật theo Quyết định số 2382/QĐ-UBND ngày 30/8/2006.

Tường Yên

3.4. Huyện Đông Sơn: 16 địa danh

STT

Tên địa danh

Tóm tắt lý lịch

Tên dùng

1

Cầu Ngọc Khê

Cầu Ngọc Khê là tên cổ của cầu bắc qua sông nhà Lê, thuộc địa phận làng Ngọc Tích, xã Đông Thanh, huyện Đông Sơn. Đây là cây cầu đẹp trước mặt di tích cấp tỉnh Đền Cả - Đế Thích. Hiện vẫn còn lưu giữ được văn bia mô tả về cầu.

Ngọc Khê

2

Đình làng Minh Thành

Đình làng Minh Thành, đây là ngôi đình nổi tiếng, nơi thờ vị thần Cao Sơn đại vương, duệ hiệu là Chiêu hiền phổ tế thượng đẳng tối linh thần đại vương do các triều đại phong kiến phong tặng, thuộc xã Đông Quang, huyện Đông Sơn. Đình làng Minh Thành được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh năm 2017. Đình hiện là nơi sinh hoạt tín ngưỡng tâm linh của Nhân dân trong vùng, địa điểm đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Minh Thành

3

Kẻ[107] Bôn

Kẻ Bôn thuộc xã Đông Thanh, huyện Đông Sơn. Đây là vùng đất cổ được hình thành và phát triển từ rất sớm, nằm ở trung tâm của huyện Đông Sơn và cũng gần như trung tâm của vùng đồng bằng châu thổ sông Mã. Kẻ Bôn bao gồm 4 làng (Tứ Bôn): Phúc Triền, Ngọc Tích, Kim Bôi và Quỳnh Đôi. Một địa danh có những di sản văn hóa vật thể, phi vật thể nổi tiếng.

Kẻ Bôn

4

Kẻ Mơ

Kẻ Mơ (làng Mai Chữ)[108] là tên làng cổ có trước năm 1945, thuộc tổng Quang Chiếu, huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Hóa. Từ năm 1953, thuộc xã Đông Nam, huyện Đông Sơn, tên địa danh đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Kẻ Mơ

5

Kẻ Rủn

Kẻ Rủn[109] là tên gọi từ thời xưa của xã Đông Khê, huyện Đông Sơn. Thời Lê - Nguyễn thuộc tổng Thạch Khê gồm các làng: Làng Rủn, Tam Xuyên, Bắc Giáp, Phù Khê, Phù Bình. Vùng đất Kẻ Rủn rồi đến làng Rủn, cùng thời với tên gọi các vùng cư dân lân cận như Kẻ Bôn, Kẻ Rỵ, Kẻ Chè... Từ năm Gia Long thứ 7 (1808), lỵ sở huyện Đông Sơn chuyển về làng Rủn cho tới năm Minh Mệnh thứ 4 (1823). Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Kẻ Rủn

6

Làng Mai Xuyên

Làng Mai Xuyên thuộc xã Đông Thịnh, huyện Đông Sơn, là tên làng cổ thuộc tổng Lê Nguyễn. Theo Đồng Khánh địa dư chí, làng Mai Xuyên[110] là một trong 16 xã, thôn thuộc tổng Tuân Hóa, huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

Mai Xuyên

7

Làng Ngọc Lậu

Làng Ngọc Lậu là một làng cổ, thuộc xã Đông Thịnh, huyện Đông Sơn. Theo Đồng Khánh địa dư chí, làng Ngọc Lậu[111] là một trong 16 xã, thôn thuộc tổng Tuân Hóa, huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Nơi đây là nơi diễn ra Đại hội đại biểu lần thứ V của Đảng bộ huyện Đông Sơn vào ngày 07/01/1959 tại đình làng Ngọc Lậu.

Ngọc Lậu

Kẻ Lậu (thôn Ngọc Lậu) trước thuộc xã Doãn Xá, về sau thuộc xã Đông Thịnh, huyện Đông Sơn, là tên làng cổ chứa đựng nhiều giá trị lịch sử văn hóa.

8

Làng Quan Đức

Làng Quan Đức thuộc tổng Thạch Khê, nay là làng Trường Xuân, xã Đông Ninh, huyện Đông Sơn, là tên một làng cổ.

Quan Đức

9

Làng Quỳnh Bôi

Làng Quỳnh Bôi là tên làng cổ thuộc Cổ Bôn xưa, theo Đồng Khánh địa dư chí, làng Quỳnh Bôi[112] là một trong 16 xã, thôn thuộc tổng Thanh Khê, huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa, nay thuộc xã Đông Thanh, huyện Đông Sơn. Nơi đây có núi Quỳnh (một danh sơn được ghi trong sử sách), dưới chân núi có đền thờ Bạch Vân Sơn Thần (Thần Cáo Bạch phù giúp Đăng Quận Công Nguyễn Khải đánh thắng quân nhà Mạc) và phủ Mẫu đã được xếp hạng di tích cấp tỉnh.

Quỳnh Bôi

10

Làng Triệu Tiền

Làng Triệu Tiền thuộc xã Đông Tiến, huyện Đông Sơn, quê hương của tướng quân Thiều Thốn - một nhân vật nổi tiếng dưới thời Trần mà sử sách cũ ghi chép và ca ngợi.

Triệu Tiền

11

Làng Xích Lộ

Làng Xích Lộ thuộc xã Đông Nam, huyện Đông Sơn. Nơi đây đã đi vào ca dao lưu truyền cho đến ngày nay: Ao Vạn Lộc, dọc Đồng Pho, chùa Mao Xá, đá Núi Nhồi, vôi Xích Lộ, cỗ Chợ Mới.

Xích Lộ

12

Làng Xuân Lưu

Làng Xuân Lưu thuộc tổng Quảng Chiếu, hiện nay trở thành phố Xuân Lưu, thị trấn Rừng Thông, huyện Đông Sơn. Ở đây có đình Xuân Lưu được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh tại Quyết định số 410/QĐ-UBND ngày 25/01/2019, là nơi sinh hoạt văn hóa, nơi hội họp việc làng, đồng thời cũng là nơi thờ thần hoàng làng. Hiện nay trong đình làng có thờ Trung Quốc tôn thần (con trai Hoàng đế Lê Ngọc) và thờ hai vị Hậu thần là: Thái Bảo Quận công Nguyễn Đình Thuần và Thống đốc Chi binh Vũ Bá Trác.

Xuân Lưu

13

Xã Ngọc Bôi

Xã Ngọc Bôi đổi thành xã Kim Bôi, nay là làng Kim Bôi, xã Đông Thanh, huyện Đông Sơn. Đây là tên xã cổ thuộc Cổ Bôn xưa, năm Minh Mạng thứ V (1824).

Ngọc Bôi

14

Xã Ngọc Đôi

Xã Ngọc Đôi thuộc Cổ Bôn xưa, là tên xã cổ thuộc làng Ngọc Tích, xã Đông Thanh, huyện Đông Sơn. Năm Minh Mạng thứ V (1824) xã Ngọc Đôi đổi thành xã Ngọc Tích. Nơi đây có nhiều di tích lịch sử cấp tỉnh như: Đình Ngọc Tích, đền Cả, đền thờ các quận công họ La, đền thờ tiến sĩ Cao Cử.

Ngọc Đôi

15

Xã Phù Liễn

Xã Phù Liễn là tên một xã cổ, thuộc tổng Thạch Khê, nay thuộc xã Đông Hoàng, huyện Đông Sơn.

Phù Liễn

16

Xã Phúc Thọ

Xã Phúc Thọ là tên xã thuộc Cổ Bôn xưa. Năm Minh Mạng thứ V (1824), xã Phúc Thọ đổi thành xã Phúc Triền, nay là làng Phúc Triền, xã Đông Thanh, huyện Đông Sơn. Nơi đây có di tích cấp quốc gia đền thờ Nguyễn Văn Nghi - Thầy dạy của hai đời Vua thời Lê Trung Hưng.

Phúc Thọ

3.5. Huyện Hà Trung: 14 địa danh

STT

Tên địa danh

Tóm tắt lý lịch

Tên dùng

1

Làng Đông Bình

Làng Đông Bình, trước có tên là Đông Đô, theo Đồng Khánh địa dư chí, làng Đông Bình[113] là 1 trong 16 xã, thôn thuộc tổng Thượng Bạn, huyện Tống Sơn, nay thuộc xã Hà Long, huyện Hà Trung. Đây là địa danh đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Đông Bình

2

Làng Kim Sơn

Làng Kim Sơn[114] là làng có từ xa xưa, trước cách mạng tháng 8 năm 1945 thuộc xã Kim Âu, tổng Ngọ Xá, huyện Vĩnh Lộc, phủ Thiệu Thiên, đến năm 1954 chuyển về xã Ngọc Âu, huyện Hà Trung, nay thuộc xã Hà Đông, huyện Hà Trung. Tại làng Kim Sơn có đình làng được nhiều người biết đến, hiện đình làng Kim Sơn được Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin (nay là Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử văn hóa cần được bảo vệ và phát huy tác dụng tại Quyết định số 219/VHQĐ ngày 25/9/1995. Địa danh Kim Sơn là địa danh Nhân dân vẫn quen dùng từ xưa đến nay, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Kim Sơn

3

Làng Ngọc Đới

Làng Ngọc Đới, trước là Bảo Đới, tổng Thượng Bạn, huyện Tống Sơn. Đến cuối thế kỷ XIII, làng Ngọc Đới[115] thuộc vùng đất xã Hà Long, huyện Hà Trung. Đây là địa danh đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Ngọc Đới

4

Làng Tâm Quy

Làng Tâm Quy là một làng cổ, theo Đồng Khánh địa dư chí, làng Tâm Quy[116] là một trong 15 xã, thôn thuộc tổng Nam Bạn, huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, nay thuộc xã Hà Tân, huyện Hà Trung. Làng Tâm Quy là địa điểm lịch sử mà lão tướng Đô Dương và cừ súy bảo tướng quân Chu Bá (tướng của Hai Bà Trưng) chặn đánh quân Mã Viện, gây cho địch nhiều tổn thất (vào năm 40 đầu Công nguyên). Tâm Quy trong thời kỳ cách mạng 1930 - 1945 cũng là một địa chỉ đỏ có nhiều cuộc họp quan trọng của Tỉnh ủy được tổ chức bí mật tại đây.

Tâm Quy

5

Làng Yên

Làng Yên hay gọi là Yên Thôn là làng có từ lâu đời. Theo Đồng Khánh địa chí, làng Yên[117] vốn là 1 trong 14 xã, thôn, sở của huyện Nga Sơn; thời kỳ năm 1945, được chuyển về huyện Tống Sơn, nay thuộc xã Hà Hải, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Làng có di tích đình làng Yên, chùa Long Yên được Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin (nay là Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử văn hóa và kiến trúc nghệ thuật tại Quyết định số 716/QĐ-VHTT ngày 12/11/2002.

Làng Yên

6

Phố Cừ

Phố Cừ nơi có Cầu Cừ, nay thuộc xã Yên Dương (Hà Dương cũ), huyện Hà Trung. Tên địa danh người dân đã quen dùng từ xa xưa, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Phố Cừ

7

Phố Gũ

Phố Gũ thuộc xã Lĩnh Toại (Hà Phú cũ), huyện Hà Trung. Tên địa danh người dân đã quen dùng từ xa xưa, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Phố Gũ

8

Thôn Thổ Khối

Thôn Thổ Khối thuộc xã Hà Dương, huyện Hà Trung, là nơi có vị trí trọng yếu cả về thế công lẫn thế thủ, được Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn lựa chọn làm địa điểm lui binh chiến lược trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông xâm lược nước ta lần thứ 2 (1285). Ông đã mưu trí, quyền biến tổ chức cuộc rút lui tài tình từ Thiên Trường vào Thanh Hóa, bảo vệ và đưa hai Vua cùng bộ chỉ huy quân sự nhà Trần về ẩn náu tại Thổ Khối. Trong thời gian tại đây, ông chiêu mộ quân lương, ngày đêm tập luyện binh sĩ, chờ đợi thời cơ. Đến tháng 5/1285, nhận thấy thời cơ phản công đã đến, ông cùng các tướng lĩnh kéo quân ra bắc, làm nên chiến thắng Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương... đưa cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông lần thứ hai toàn thắng.

Thổ Khối

9

Thôn Tiên Hòa

Thôn Tiên Hòa thuộc Thanh Xá, xã Hà Lĩnh, huyện Hà Trung, là địa danh tiêu biểu cho phong trào đấu tranh ngăn chặn tình trạng tăng thuế tùy tiện thời kỳ 1930-1945 trên địa bàn huyện Hà Trung.

Tiên Hòa

10

Thôn Trang Các

Thôn Trang Các hay còn gọi là thôn Kim Trang là nơi có chùa Trang Các, tên một thôn cũ nằm trong tổng Ngọ Xá, huyện Vĩnh Lộc. Đầu thế kỷ XX được chuyển về huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung. Từ năm 1954, thuộc xã Hà Phong, huyện Hà Trung. Nay vùng đất thuộc thị trấn Hà Trung. Địa danh đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Trang Các

11

Thôn Yến Vĩ

Thôn Yến Vĩ[118] là một trong 16 thôn, xã thuộc tổng Thượng Bạn, huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, nay là xã Hà Long, huyện Hà Trung.

Yến Vĩ

12

Trang Hoàng Vân

Trang[119] Hoàng Vân[120] có từ thế kỷ XIX đời vua Gia Long, là một trong 16 thôn, xã thuộc tổng Thượng Bạn, huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, nay thuộc vùng đất xã Hà Long, huyện Hà Trung. Đây là địa danh đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân[121].

Hoàng Vân

13

Xã Hà Yên

Xã Hà Yên [122] trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, là vùng đất thuộc thôn An Xá, xã Lãng Vinh và thôn Đình Trung thuộc xã Bùi Xá, tổng Trung Bạn, huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung. Từ năm 1945 -1954, thuộc xã Hoạt Giang, huyện Hà Trung. Tên xã Hà Yên có từ năm 1954 đến nay. Xã Hà Yên nay là xã Yên Dương, huyện Hà Trung, xã có đặc sản mắm tép tiến Vua nổi tiếng được nhiều người biết đến đồng thời trên địa bàn xã có đình Trung được xếp hạng kiến trúc nghệ thuật Quốc gia đã trở thành một điểm tham quan du lịch hấp dẫn. Địa danh Hà Yên đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Hà Yên

14

Xã Kim Âu

Xã Kim Âu, có từ năm Tự Đức thứ 14 (1861) vì kiêng đồng âm tên húy Triệu Tổ Nguyễn Kim nên đổi là Ngọc Âu, là một trong những xã của tổng Ngọ Xá, huyện Vĩnh Lộc, phủ Quảng Hóa. Đầu thế kỷ XX được chuyển về huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung. Sau năm 1954 thuộc vùng đất xã Hà Ngọc và Hà Đông. Địa danh đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Kim Âu

3.6. Huyện Hậu Lộc: 34 địa danh

STT

Tên địa danh

Tóm tắt lý lịch

Tên dùng

Ghi chú

1

Ấp Hoa Lạc

Ấp Hoa Lạc thuộc xã Phong Lộc, huyện Hậu Lộc. Ngày đầu thời kỳ lập làng, lập ấp tên là “Ấp Hoa Lạc”. Sau nhiều thập kỷ, ấp “Hoa Lạc” được đổi tên là “Phù Lạc” tồn tại đến nay.

Hoa Lạc

 

2

Cầu Nam Khê

Cầu Nam Khê là cầu vượt qua kênh De thuộc địa phận huyện Hậu Lộc. Cầu Nam Khê có từ lâu đời, địa danh này đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Nam Khê[123]

Đã đặt tên công trình công cộng

3

Chợ Choàng

Chợ Choàng thuộc xã Phú Lộc, huyện Hậu Lộc. Chợ được mở từ đời vua Thành Thái, là một trong ba chợ lớn nhất tỉnh Thanh Hóa lúc bấy giờ: Nhất chợ Bản (Yên Định), nhì chợ Hoàng (Nga Sơn), ba chợ Choàng (Hậu Lộc). Địa danh có từ xa xưa, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Chợ Choàng

 

4

Chợ Dầu

Chợ Dầu thuộc địa phận làng Do Trung, nay là thị trấn Hậu Lộc, huyện Hậu Lộc, là một trong những chợ lớn của huyện Hậu Lộc, với nhiều mặt hàng phong phú, đa dạng, có nhiều đặc sản vùng biển. Địa danh có từ xa xưa, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Chợ Dầu

 

5

Chợ Phủ

Chợ Phủ thuộc huyện Hậu Lộc, chợ có từ thời nhà Lý, chợ đặt ở lỵ phủ Hà Trung (cũ) nên được gọi là chợ Phủ. Chợ có bốn cái đình to vừa là nơi thờ cúng, vừa làm nơi họp chợ. Hiện nay chợ được xây dựng khang trang, phục vụ nhu cầu mua bán hàng ngày của Nhân dân các xã quanh vùng của hai huyện Hậu Lộc và Hoằng Hóa. Địa danh có từ xa xưa, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Chợ Phủ

 

6

Đình Phong Mục

Đình Phong Mục là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh năm 2010, thuộc xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc. Địa danh được nhiều người biết đến, quen thuộc với Nhân dân trong vùng, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Phong Mục

 

7

Đường Tam Quan

Đường Tam Quan thuộc huyện Hậu Lộc, đường vào mộ ba ông tướng họ Lý (dưới chân núi Tùng), thuộc xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc. Địa danh có từ xa xưa, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Tam Quan

 

8

Kênh 2/9

Kênh 2/9 thuộc huyện Hậu Lộc. Kênh đưa nước từ mương Mười Xã về sông Trà Giang, qua sông nước xanh rồi đổ ra sông Lạch Trường, tiêu úng cho các vùng đồi và một số xã vùng màu của huyện Hậu Lộc. Địa danh có từ xa xưa, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Kênh 2/9

 

9

Kênh De

Kênh De thuộc huyện Hậu Lộc, kênh chảy theo hướng Bắc - Nam nối liền sông Lèn, nhận lũ của sông Lèn đổ ra sông Lạch Trường. Là đường giao thông thủy quan trọng cho tàu thuyền trong huyện và ngoài huyện. Địa danh có từ xa xưa, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Kênh De

 

10

Kỳ Đà

Kỳ Đà thuộc xã Phong Lộc, huyện Hậu Lộc. Tên gọi cũ của làng Kỳ Sơn, (gồm thôn Kỳ Sơn, thôn Chùa ngày nay). Tên Kỳ Đà có từ thời vua Lê Thánh Tông năm (1460). Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Kỳ Đà đổi tên thành làng Kỳ Sơn. Địa danh có từ xa xưa, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Kỳ Đà

 

11

Làng Bồ Điền

Làng Bồ Điền nay là làng Phú Điền, xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc. Nơi đây, từ thế kỷ thứ III là căn cứ của Bà Triệu chống quân Đông Ngô xâm lược. Bà Triệu cùng ba tướng họ Lý, là người làng Phú Điền đã chiến đấu anh dũng và hy sinh oanh liệt trên mảnh đất này. Địa danh có từ xa xưa, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Bồ Điền

 

12

Làng Bùi

Làng Bùi ở xã Tiến Lộc, huyện Hậu Lộc, là làng cổ có lịch sử hình thành và phát triển hơn một nghìn năm. Làng có nghề rèn truyền thống nổi tiếng và hệ thống di tích tiêu biểu như nghè làng Bùi. Năm 2015, nghè làng Bùi được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa tại Quyết định số 345/QĐ-UBND ngày 30/1/2015. Địa danh có từ xa xưa, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Làng Bùi

 

13

Làng Do Trung

Làng Do Trung tên làng của thị trấn Hậu Lộc cũ, có từ rất lâu đời, nơi đây nổi tiếng có nhiều dưa, cảnh quan đẹp, thanh bình. Nhân dân làng Do Trung có truyền thống cách mạng. Làng có ông Bùi Vơn là một trong năm thành viên sáng lập ra Huyện ủy Hậu Lộc, có hai người làm Bí Thư Tỉnh ủy Thanh Hóa là ông Bùi Đạt và ông Hoàng Văn Hiều. Địa danh có từ xa xưa, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Do Trung

 

14

Làng Hoành Trung

Làng Hoành Trung[124], trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, gồm 8 xóm thuộc tổng Liên Cừ, từ năm 1954 đến nay là xã Hoa Lộc, huyện Hậu Lộc. Đây là làng có từ xa xưa đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Hoành Trung

 

15

Làng Kẻ Ghì

Làng Kẻ Ghì thuộc xã Phong Lộc, huyện Hậu Lộc. Tên gọi cũ của làng Kỳ Sơn. Tên Kẻ Ghì có từ thế kỷ XII - XIII. Địa danh có từ xa xưa, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Kẻ Ghì

 

16

Làng Kiến Long

Làng Kiến Long thuộc xã Hưng Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa, là vùng quê giàu truyền thống lịch sử, văn hóa và cách mạng. Đặc biệt làng có nghè làng Kiến Long - nơi thờ Đại càn quốc gia Nam hải tứ vị thánh nương thượng đẳng thần. Năm 2018, nghè được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa xếp hạng là di tích lịch sử tại Quyết định số 415/QĐ-UBND ngày 30/01/2018. Địa danh có từ xa xưa, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Kiến Long

 

17

Làng Phú Nhi

Làng Phú Nhi thuộc xã Hưng Lộc, huyện Hậu Lộc, tên làng cổ đồng thời là tên cụm di tích cách mạng được xếp hạng là di tích cấp tỉnh năm 1998. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Phú Nhi

 

18

Làng Sơn

Làng Sơn thuộc xã Tiến Lộc, huyện Hậu Lộc, trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 có tên là Tất Tác Sơn, là một trong các làng lớn của xã Tiến Lộc, tọa lạc ở trung tâm xã, có lịch sử hình thành cách đây trên dưới một ngàn năm. Làng có nghề rèn truyền thống nổi tiếng và hệ thống di tích tiêu biểu như đình làng Sơn. Năm 2019, đình làng Sơn được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật tại Quyết định số 410/QĐ-UBND ngày 25/1/2019. Địa danh có từ xa xưa, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Làng Sơn

 

19

Làng Xuân Hội

Làng Xuân Hội thuộc xã Tiến Lộc, huyện Hậu Lộc có lịch sử ra đời hàng trăm năm. Làng được hình thành từ Hoa Thị Trang - địa danh khi mới khai canh lập làng, đến đầu triều Nguyễn có tên là làng Xuân Hội. Là một làng cổ chứa đựng nhiều giá trị lịch sử, văn hóa. Đặc biệt làng có nghè làng Xuân Hội được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa xếp hạng là di tích lịch sử theo Quyết định số 415/QĐ-UBND ngày 30/01/2018. Địa danh có từ xa xưa, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Xuân Hội

 

20

Ngõ[125] Bồ Ngòn

Ngõ Bồ Ngòn thuộc huyện Hậu Lộc, tên 10 ngõ cổ của các làng, xã Triệu Lộc cũ. Địa danh có từ xa xưa, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Ngõ Bồ Ngòn

 

21

Ngõ Chùa

Ngõ Chùa thuộc huyện Hậu Lộc, tên 10 ngõ cổ của các làng, xã Triệu Lộc cũ. Địa danh có từ xa xưa, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Ngõ Chùa

 

22

Ngõ Củi

Ngõ Củi thuộc huyện Hậu Lộc, tên 10 ngõ cổ của các làng, xã Triệu Lộc cũ. Địa danh có từ xa xưa, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Ngõ Củi

 

23

Ngõ Liễu

Ngõ Liễu thuộc huyện Hậu Lộc, tên 10 ngõ cổ của các làng, xã Triệu Lộc cũ. Địa danh có từ xa xưa, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Ngõ Liễu

 

24

Ngõ Mạc

Ngõ Mạc thuộc huyện Hậu Lộc, tên 10 ngõ cổ của các làng, xã Triệu Lộc cũ. Địa danh có từ xa xưa, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Ngõ Mạc

 

25

Ngõ Nang

Ngõ Nang thuộc huyện Hậu Lộc, tên 10 ngõ cổ của các làng, xã Triệu Lộc cũ. Địa danh có từ xa xưa, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Ngõ Nang

 

26

Ngõ Nhãn

Ngõ Nhãn thuộc huyện Hậu Lộc, tên 10 ngõ cổ của các làng, xã Triệu Lộc cũ. Địa danh có từ xa xưa, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Ngõ Nhãn

 

27

Ngõ Nhồi

Ngõ Nhồi thuộc huyện Hậu Lộc, tên 10 ngõ cổ của các làng, xã Triệu Lộc cũ. Địa danh có từ xa xưa, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Ngõ Nhồi

 

28

Ngõ Thị

Ngõ Thị thuộc huyện Hậu Lộc, tên 10 ngõ cổ của các làng, xã Triệu Lộc cũ. Địa danh có từ xa xưa, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Ngõ Thị

 

29

Ngõ Y Môn

Ngõ Y Môn thuộc huyện Hậu Lộc, tên 10 ngõ cổ của các làng, xã Triệu Lộc cũ. Địa danh có từ xa xưa, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Ngõ Y Môn

 

30

Sông Trà Giang

Sông Trà Giang thuộc huyện Hậu Lộc, là con sông được đào từ thời Tiền Lê, chảy theo hướng Bắc Nam, nối sông Lèn ở đập Lộc Động, xã Phong Lộc với sông Ấu ở ngã ba Ghềnh (xã Mỹ Lộc) của Hậu Lộc. Là công trình thủy lợi tiêu nước lớn nhất trong huyện, vừa dự trữ nguồn nước quan trọng phục vụ sản xuất nông nghiệp. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Trà Giang

 

31

Thôn Hanh Cát

Thôn Hanh Cát thuộc xã Đa Lộc, huyện Hậu Lộc. Tên gọi cũ của thôn ở xã Liên Thành, quê Mẹ Tơm nhân vật đã đi vào bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Tố Hữu. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Hanh Cát

 

32

Trận địa Đông Ngàn

Trận địa Đông Ngàn thuộc huyện Hậu Lộc, gắn với Trung đội dân quân gái Hoa Lộc, đơn vị anh hùng trong thời kỳ chống chiến tranh phá hoại miền Bắc với thành tích 3 lần bắn rơi máy bay Mỹ. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Đông Ngàn

 

33

Xã Châu Lộc

Xã Châu Lộc thuộc huyện Hậu Lộc, là tên gọi có từ xa xưa, là xã vùng bán sơn địa phía cực tây của huyện Hậu Lộc, cách trung tâm huyện lỵ 13 km. Năm 2019, thực hiện Nghị quyết số 786/NQ-UBTVQH14 ngày 16/10/2019 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, xã Châu Lộc sáp nhập với xã Triệu Lộc. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Châu Lộc

 

34

Xã Văn Lộc

Xã Văn Lộc là tên xa xưa của xã nằm về phía Tây Nam của huyện Hậu Lộc, cách trung tâm thị trấn 4km về phía Nam. Năm 2019 xã Văn Lộc sáp nhập với xã Thuần Lộc thành xã Thuần Lộc. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Văn Lộc

 

3.7. Huyện Hoằng Hóa: 09 địa danh

STT

Tên địa danh

Tóm tắt lý lịch

Tên dùng

Ghi chú

1

Cầu Đông Lưu

Cầu Đông Lưu là cầu vượt qua sông Chu nối giữa hai xã Hoằng Đông và xã Hoằng Lưu thuộc huyện Hoằng Hóa.

Đông Lưu[126]

Đã đặt tên công trình công cộng

2

Làng Phượng Mao

Làng Phượng Mao thuộc xã Hoằng Phượng, huyện Hoằng Hóa. Trước đây có tên gọi là Tuấn Mau, làng được hình thành từ thế kỷ XV, thời Lê sơ, do hai vị tướng có công giúp vua Lê dẹp giặc, đó là Lê Công Trinh và Lê Công Phụ được nhà vua ban đất ở đây để khai dân, lập ấp và được ban 36 đạo sắc phong, hiện nay còn lưu giữ 23 đạo sắc. Đến thời Nguyễn, làng có tên là Phượng Mao, xã Cẩm La, tổng Lỗ Hương, huyện Mỹ Hóa. Làng có một số công trình văn hóa tâm linh được nhân dân lưu truyền qua nhiều thế hệ, đó là đình, nghè thờ Lê Công Trinh, Lê Công Phụ, hiện nay còn có văn chỉ và 23 sắc phong. Tháng Hai (Âm lịch) hằng năm, Nhân dân trong làng lại tổ chức mở hội tế hai vị thần đã có công giúp vua Lê đánh giặc.

Phượng Mao

 

3

Làng Vĩnh Gia

Làng Vĩnh Gia[127] thời Lý gọi là Cổ Đô xã, rồi Nhân Cõi khu, làng Cuội; đầu thời Nguyễn đã có tên thôn Vĩnh Gia[128], xã Lỗ Hương thuộc tổng Lỗ Hương, nay thuộc xã Hoằng Phượng, huyện Hoằng Hóa. Làng có những di tích lịch sử khá nổi tiếng như chùa Vĩnh Phúc Tự (hay còn gọi là chùa Gia); nghè thờ Tam vị Đại vương (Tô Hiến Thành, Trần Khát Chân và Tôn Thành Hoàng làng) được Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin (nay là Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử văn hóa cần được bảo vệ và phát huy tác dụng tại Quyết định số 163/VHQĐ ngày 20/4/1994. Nghè Vĩnh Gia, hiện còn lưu giữ được nhiều câu đối và nhiều đạo sắc phong vua ban cho tam vị đại vương được thờ tại nghè và 1 tấm bia đá là những tư liệu, hiện vật quý giá. Đây là địa danh được Nhân dân trong và ngoài tỉnh biết đến, tên Vĩnh Gia đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Vĩnh Gia

 

4

Làng Cự Đà

Làng Cự Đà thuộc xã Hoằng Minh trước đây và nay là Hoằng Đức, huyện Hoằng Hóa, là nơi thành lập chi bộ Đảng đầu tiên của huyện Hoằng Hóa, làng đã được Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng Bằng có công với nước năm 2002.

Cự Đà

 

5

Làng Hạ Vũ

Làng Hạ Vũ thuộc xã Hoằng Đạt, huyện Hoằng Hóa. Là địa chỉ cách mạng, trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước làng Hạ Vũ là pháo đài bảo vệ phía đông cầu Hàm Rồng, cầu Tào, cầu Cách, xí nghiệp đóng thuyền, dép lốp, kho lương thực và Ủy ban hành chính huyện đóng trên địa bàn làng Hạ Vũ. Làng được Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng Bằng có công với nước năm 2001.

Hạ Vũ

 

6

Làng Liên Châu

Làng Liên Châu thuộc xã Hoằng Châu, huyện Hoằng Hóa, nơi có phong trào Việt Minh trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 rất mạnh, làng Liên Châu được coi là “chiếc nôi của cách mạng” ở huyện Hoằng Hóa, là nơi quân Nhật và chính quyền tay sai 05 lần đưa quân về đàn áp và đều bị đánh bại, góp phần làm nên thắng lợi của khởi nghĩa giành chính quyền huyện Hoằng Hóa ngày 24/7/1945 sớm nhất cả tỉnh. Làng được Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tặng Bằng có công với nước năm 1964.

Liên Châu

 

7

Làng Phúc Tiên

Làng Phúc Tiên[129], làng có từ xa xưa, trước có tên gọi là Thượng Thọ, trước Cách mạng tháng 8 -1945, làng Phúc Tiên là một trong 4 làng thuộc xã Hoằng Quỳ thuộc tổng Dương Thủy, nay thuộc xã Hoằng Quỳ, huyện Hoằng Hóa. Hiện làng có đình làng Phúc Tiên được Nhân dân trong và ngoài tỉnh biết đến, đình được xây dựng vào năm 1826, thờ Đô thống tướng quân Lê Phụng Hiểu. Năm 2017, đình được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa xếp hạng là di tích lịch sử cấp tỉnh tại Quyết định số 264/QĐ-UBND ngày 20/01/2017.

Phúc Tiên

 

8

Làng Trọng Hậu

Làng Trọng Hậu còn được biết đến với tên cổ là Kẻ Trọng, xã Hoằng Quỳ, huyện Hoằng Hóa. Làng có lịch sử hình thành từ rất sớm nên chứa đựng nhiều giá trị lịch sử văn hóa, trong đó có ngôi đình làng Trọng Hậu xây dựng từ thời Nguyễn - nơi tôn thờ Thành Hoàng làng Lê Phụng Hiểu. Đây là một trong những ngôi đình còn giữ được nhiều giá trị kiến trúc đặc sắc thời Nguyễn. Năm 2015, đình được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh theo Quyết định số 345/QĐ-UBND ngày 30/1/2015.

Trọng Hậu

 

9

Làng Trù Ninh

Làng Trù Ninh[130] (Vạn Ninh, Trù Thôn) thuộc xã Hoằng Đạt, huyện Hoằng Hóa, là vùng đất cổ được hình thành cách đây khoảng 500 năm, có bề dày truyền thống lịch sử và văn hóa. Hằng năm vào ngày mùng 2 Tết Nguyên đán làng tổ chức lễ hội đua thuyền truyền thống. Làng còn có đền, chùa làng Trù Ninh được xếp hạng di tích cấp tỉnh năm 2002. Đây là cụm di tích là một quần thể kiến trúc các di tích bao gồm: Đền thờ Cao Sơn thờ Cao Sơn Thượng Đẳng Thần, chùa Bái Ninh thờ Phật, phủ Mẫu được Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin (nay là Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử văn hóa cần được bảo vệ và phát huy tác dụng tại Quyết định số 69/QĐ-VHTT ngày 8/2/2002.

Trù Ninh

 

3.8. Huyện Lang Chánh: 07 địa danh

STT

Tên địa danh

Tóm tắt lý lịch

Tên dùng

Ghi chú

1

Bản Chiềng Chải

Bản Chiềng Chải là một địa danh có từ thời cổ xưa, trước thuộc xã Quang Hiến, huyện Lang Chánh, từ năm 1991 được sáp nhập vào thị trấn Lang Chánh[131]. Bản Chiềng Chải là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Chiềng Chải

 

2

Động Giao Lão

Động Giao Lão thuộc xã Giao An, huyện Lang Chánh. Thời Lê thuộc động Giao Lão, thời Nguyễn thuộc Mường Nang, tổng Thiên Thổ, châu Lang Chính. Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, có tên là Giao An. Giao Lão là địa danh gắn với hoạt động của nghĩa quân Lam Sơn.

Giao Lão

 

3

Đường Bảo Ninh Lương

Đường Bảo Ninh Lương theo sách “Đại Nam nhất thống chí” chép: Bảo Ninh Lương ở xã Mỹ Chánh, châu Lang Chánh. Năm Minh Mạng thứ 18, quân Kinh Lý đến địa phương này đóng quân phòng thủ, sau khi giặc cướp tạm yên, rút quân về tỉnh, bèn dùng bảo này làm lỵ sở của châu. Bảo Ninh Lương xưa, nay thuộc xã Quang Hiến, huyện Lang Chánh kề với trung tâm thị trấn huyện Lang Chánh hiện nay.

Bảo Ninh Lương[132]

Đã đặt tên đường

4

Làng Mường Khạt

Làng Mường Khạt thuộc xã Đồng Lương, huyện Lang Chánh, thời Nguyễn thuộc tổng Quy Chánh, châu Lương Chính. Đây là địa danh lịch sử có Thung Voi nơi diễn ra các trận chiến đấu của nghĩa quân Lam Sơn (thế kỷ XV). Nơi tìm thấy bia hộp nói về hoạt động của danh tướng Đinh Bị trong khởi nghĩa Lam Sơn.

Mường Khạt

 

5

Xã Mường Chính

Xã Mường Chính, huyện Lang Chánh trước đây gồm 4 xã. Địa danh này là một trong những địa danh diễn ra trận đánh lớn của nghĩa quân Lam Sơn. Năm 1419 trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, nghĩa quân đã đóng ở Hà Sơn rồi mai phục sẵn ở Mường Chính để diệt giặc.

Mường Chính[133]

Đã đặt tên đường

6

Xã Quang Hiến

Xã Quang Hiến có từ thời Tây Sơn, thuộc đất Mường Chính, tổng Tùy Chính, châu Lương Chính. Xã Quang Hiến được Chính phủ quyết định tách ra từ xã Quyết Thắng vào tháng 6 năm 1966. Quang Hiến xưa kia là vùng đất trung tâm của châu Lang Chánh, là xã Mỹ Chánh xưa, có Mường Chánh hay Mường Tầm là một Mường lớn làm nền tảng cho việc thành lập châu Lang Chánh sau này. Vùng đất này đã từng in dấu chân của Lê Lợi cùng tướng quân Lê Thạch (cháu Lê Lợi) và nghĩa quân Lam Sơn. Hón Oi - nơi vẫn lưu truyền có 12 cửa trạm mà Lê Lợi đã dấu quân, luyện tập binh mã chiến đấu chống giặc Minh xâm lược.

Quang Hiến[134]

Đã đặt tên đường

7

Xã Văn Hiến

Xã Văn Hiến là tên xã trước đây, thời Tây Sơn đến đầu thời Nguyễn, vùng đất Quang Hiến ngày nay thuộc đất Mường Chính, tổng Tùy Chính, châu Lương Chính. Từ năm Minh Mệnh năm thứ 18(1837) thuộc xã Mỹ Chánh, tổng Tùy Chính, châu Lang Chánh. Sau đó là hai xã: Vinh Quang và Văn Hiến. Tháng 8 năm 1951 sáp nhập ba xã: Vinh Quang, Văn Hiến và Trí Nang để thành lập xã Quyết Thắng (trang 105,106 Địa chí huyện Lang Chánh).

Văn Hiến[135]

Đã đặt tên đường

3.9. Huyện Mường Lát: 04 địa danh

STT

Tên địa danh

Tóm tắt lý lịch

Tên dùng

1

Bản Đoàn Kết

Bản Đoàn Kết thuộc xã Tén Tằn, huyện Mường Lát; sau khi xã Tén Tằn sáp nhập vào thị trấn Mường Lát vào năm 2019, hiện nay đổi tên thành khu phố Đoàn Kết - thị trấn Mường Lát, huyện Mường Lát, tên một bản của đồng bào Khơ Mú.

Bản Đoàn Kết[136]

2

Bản Mường Púng

Bản Mường Púng thuộc xã Quang Chiểu, huyện Mường Lát, là địa danh có từ xưa, nay là Bản Pùng (thuộc Mường Púng xưa) thuộc xã Quang Chiểu.

Mường Púng

3

Bản Mường Sim

Bản Mường Sim nay thuộc Bản Sim, xã Quang Chiểu, huyện Mường Lát, là địa danh từ xưa.

Mường Sim

4

Bản Sài Khao

Bản Sài Khao nằm ở độ cao hơn 1.500 mét so với mực nước biển, trong những tháng năm kháng chiến oai hùng, chính bản làng nghèo này là nơi Trung đoàn Tây Tiến hành quân ghé ngang và gửi giấc mộng nhớ thương cho người nơi hậu phương. Vùng đất này đến nay vẫn lưu giữ những dấu tích mà bộ đội Tây Tiến khi dừng chân, lập căn cứ đã để lại.

Sài Khao

3.10. Huyện Nga Sơn: 27 địa danh

STT

Tên địa danh

Tóm tắt lý lịch

Tên dùng

Ghi chú

1

Cầu Lạch Sung

Cầu Lạch Sung là cầu vượt qua sông Lèn nối giữa 02 huyện Nga Sơn và Hậu Lộc.

Lạch Sung[137]

Đã đặt tên công trình công cộng

2

Cầu Thanh Bình

Cầu Thanh Bình là cầu vượt qua sông nối giữa huyện Nga Sơn và Hậu Lộc.

Thanh Bình[138]

Đã đặt tên công trình công cộng

3

Đình Chí Đức

Đình Chí Đức: Tên một ngôi đình, thuộc huyện Nga Sơn, là căn cứ cách mạng đây là nơi diễn ra Đại hội chi bộ xã Nga Thanh lần thứ I, lần thứ II, lần thứ III và lần thứ IV. Đình Chí Đức được xếp hạng di tích lịch sử cách mạng năm 2009.

Chí Đức

 

4

Đình làng Hậu Trạch

Đình làng Hậu Trạch thuộc xã Nga Thạch, huyện Nga Sơn, ngôi đình được xây dựng vào thời “Đại Nam Thành Thái ngũ niên” năm Quý Tỵ (1893) cao, to, đẹp nhất nhì nước Đại Nam thuở ấy. Được vua cho phép xây 5 bậc đá (Phép này chỉ dành riêng cho làng có quan đầu triều. Cả nước chỉ có 2 ngôi đình được phép như vậy).

Hậu Trạch

 

5

Đình Mậu Thịnh

Đình Mậu Thịnh thuộc địa phận làng Mậu Thịnh, xã Ba Đình, huyện Nga Sơn. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1886-1887) ngôi đình là một trong những căn cứ thuộc hệ thống các căn cứ của cuộc khởi nghĩa Ba Đình. Trong những năm diễn ra cuộc khởi nghĩa Ba Đình, đình Mậu Thịnh trở thành một căn cứ hội họp, đóng quân và tích trữ lương thực của nghĩa quân Ba Đình.

Mậu Thịnh

 

6

Đình Mỹ Khê

Đình Mỹ Khê thuộc địa phận làng Mỹ Khê, xã Ba Đình, huyện Nga Sơn. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1886 - 1887) ngôi đình là một trong những căn cứ thuộc hệ thống các căn cứ của cuộc khởi nghĩa Ba Đình.

Mỹ Khê

 

7

Làng Chiêm Ba

Làng Chiêm Ba[139] là tên làng cổ, làng được hình thành cách đây trên 500 năm, trước là một trong 23 xã, thôn thuộc tổng Mậu Lâm (trước 1945), sau 1945 thuộc xã Vạn Chiêm (xưa) huyện Nga Sơn, phủ Hà Trung cũ, nay là xã Nga Văn, huyện Nga Sơn. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Chiêm Ba

 

8

Làng Chính Đại

Làng Chính Đại[140], đây là làng có từ trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, là 1 trong 3 làng thuộc xã Kiên Giáp, tổng Tân Phong, nay là xã Nga Điền, huyện Nga Sơn. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Chính Đại

 

9

Làng Đậu Nguyên

Làng Đậu Nguyên thuộc xã Nga Mỹ cũ (nay là thị trấn Nga Sơn), huyện Nga Sơn. Theo lịch sử làng có tên ban đầu là làng Đậu Ngoại, thành lập từ thế kỷ thứ XV với các dòng họ Trần, sau đó là họ Mai, họ Nguyễn.

Đậu Nguyên

 

10

Làng Đông Kinh

Làng Đông Kinh là tên làng cổ, thuộc xã Nga Trường, huyện Nga Sơn, trong làng có nghè Đông thờ Đông Hải Đại vương Đoàn Thượng, làng có lễ hội truyền thống tổ chức vào ngày 14/2 âm lịch.

Đông Kinh

 

11

Làng Hồ Đông

Làng Hồ Đông thuộc xã Nga Thành, huyện Nga Sơn, là tên làng cổ, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, làng Hồ Đông là cửa ngõ phía Đông Bắc của xã, phải chịu nhiều cuộc càn quét của địch, đặc biệt là cuộc càn quét với quy mô lớn của địch diễn ra vào ngày 26/3/1953. Nhân dân trong làng vốn có truyền thống yêu nước, căm thù giặc đã cùng với dân quân, du kích, bộ đội dũng cảm kiên cường chặn đánh quyết liệt các cuộc càn quét của địch. Cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ cứu nước, có 106 thanh niên nam, nữ trong làng đã tham gia bộ đội, thanh niên xung phong, có 11 người con là liệt sỹ, 5 thương binh; Nhân dân trong làng được tặng thưởng 47 huân, huy chương các loại.

Hồ Đông

 

12

Làng Hồ Nam

Làng Hồ Nam thuộc xã Nga Thành, huyện Nga Sơn, là tên làng cổ, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, làng Hồ Nam nằm trên trục đường mà địch từ Điền Hộ, Mai An Tiêm kéo quân vào Liên Sơn (xã Nga Liên ngày nay), do đó Nhân dân trong làng thường xuyên bị địch cướp phá nhà cửa, hoa màu. Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Nhân dân trong làng đã tiễn hàng chục thanh niên tham gia bộ đội chiến đấu trên khắp các chiến trường. Kết thúc hai cuộc kháng chiến, Nhân dân trong làng được nhà nước tặng thưởng 84 huân, huy chương các loại.

Hồ Nam

 

13

Làng Hợp Long

Làng Hợp Long[141] là làng được hình thành từ xa xưa, trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 thuộc tổng Cao Vịnh, sau là một trong 4 làng thuộc xã Nga Trường, huyện Nga Sơn. Hiện tại làng có một ngôi nghè thờ Thành Hoàng làng Đoàn Dương Tử (Đoàn Dưỡng Dục) nghè được nhiều người biết đến. Địa danh này đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Hợp Long

 

14

Làng Mại Đức

Làng Mại Đức thuộc xã Nga Hưng cũ, huyện Nga Sơn. Năm 1831-1832 đời vua Minh Mạng thứ XI chia nước ta làm 31 tỉnh thuộc chính quyền Trung ương. Làng Mại Đức được xác lập trên bản đồ hành chính với 8 xóm: Xóm Rù, xóm Câu, xóm Vạn, xóm Đồng, xóm Sâu, xóm Nghè, xóm Bề, xóm Độn. Làng có 6 dòng họ lớn cùng sinh sống: Họ Dương Đình, họ Nguyễn Văn, họ Nguyễn Hữu, họ Mai Văn, họ Phạm Văn, họ Trịnh.

Mại Đức

 

15

Làng Mật Kỳ

Làng Mật Kỳ thuộc xã Nga Trường, huyện Nga Sơn, là tên làng cổ, trong làng có nghè Tam Biểu (vì dân làng phải ba lần làm biểu tấu vua xin đất và kinh phí xây dựng lại Nghè do Nghè cũ bị cháy, lần thứ ba mới được vua chuẩn tấu) thờ ông Đoàn tây tổ chức vào ngày 15/2 âm lịch.

Mật Kỳ

 

16

Làng Mậu Xuân

Làng Mậu Xuân thuộc tổng Mậu Lâm (trước 1945), sau 1945 thuộc xã Vạn Chiêm (xưa), nay là xã Nga Văn, huyện Nga Sơn, là tên làng cổ, trước đây Nhân dân trong làng hay gọi là làng Mậu hay phủ Mậu. Theo sách tên làng xã Việt Nam cuối thế kỷ XIX thì tổng Mậu Lâm được gọi từ thời Lê Sơ (1428-1527). Như vậy tên làng Mậu Xuân đã có cách đây hơn 600 năm.

Mậu Xuân

 

17

Làng Ngưu Sơn

Làng Ngưu Sơn thuộc xã Nga An, huyện Nga Sơn, là tên làng cổ được đặt từ khoảng năm 1880.

Ngưu Sơn

 

18

Làng Thành

Làng Thành thuộc xã Nga Thành, huyện Nga Sơn, nơi có đình làng thành được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa xếp hạng là di tích lịch sử cách mạng tại Quyết định số 3250/QĐ-UBND ngày 31/10/2005.

Làng Thành

 

19

Làng Thổ Hoàng

Làng Thổ Hoàng thuộc tổng Mậu Lâm (trước 1945), sau 1945 thuộc xã Tùng Lâm (xưa), nay là xã Nga Văn, huyện Nga Sơn, đây là tên làng cổ. Trong cuộc khởi nghĩa Ba Đình, Nhân dân trong làng đã tích cực đào hầm, hào giao thông, đồn lũy dọc theo con kênh ở phía tây làng, xuống núi Thúc để trú ẩn, làm đường hào vận chuyển lương thực và chi viện cho căn cứ Ba Đình.

Thổ Hoàng

 

20

Làng Trung Điền

Làng Trung Điền thuộc xã Nga Trường, huyện Nga Sơn, là tên làng cổ, làng có từ năm đầu công nguyên do ông Mai An lập ra và ông được phong là Thành Hoàng làng, được Nhân dân trong làng thờ phụng.

Trung Điền

 

21

Làng Vân Hoàn

Làng Vân Hoàn thuộc xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, là một làng cổ, bệnh viện dã chiến trong kháng chiến chống Pháp của huyện Nga Sơn đóng tại đình làng Vân Hoàn.

Vân Hoàn

 

22

Làng Văn Lâm

Làng Văn Lâm thuộc tổng Mậu Lâm (trước 1945), sau 1945 thuộc xã Tùng Lâm (xưa), nay là xã Nga Văn, huyện Nga Sơn, là tên làng cổ, qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Nhân dân làng Văn Lâm có 350 người tham gia bộ đội, chiến đấu ở các chiến trường, được Nhà nước tặng thưởng 125 huân, huy chương các loại cho Nhân dân trong làng.

Văn Lâm

 

23

Làng Xa Loan

Làng Xa Loan thuộc tổng Mậu Lâm (trước 1945), sau 1945 thuộc xã Tùng Lâm (xưa) nay là xã Nga Văn, huyện Nga Sơn, là tên làng cổ, làng ra đời cách đây hàng nghìn năm (từ thời Đinh, Lý).

Xa Loan

 

24

Làng Xuân Đài

Làng Xuân Đài thuộc xã Nga Thủy, huyện Nga Sơn. Tại đây có đền thờ Trần Hưng Đạo còn gọi là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Đền được xây dựng năm 1860 (thời vua Tự Đức). Vào năm Bảo Đại nhị niên (1927), đền được xây dựng lại trên khu đất trung tâm làng Xuân Đài, xã Nga Thủy. Đền được xếp hạng di tích cấp tỉnh năm 2004.

Xuân Đài

 

25

Núi Giá

Núi Giá thuộc làng Điền Hộ, xã Ba Đình, huyện Nga Sơn, là căn cứ đồn tiền tiêu của khởi nghĩa Ba Đình có chức năng như trạm quan sát thông tin nằm cách khu căn cứ trung tâm núi Thúc khoảng 800m.

Núi Giá

 

26

Núi Thúc

Núi Thúc thuộc làng Điền Hộ, xã Ba Đình, huyện Nga Sơn, là khu căn cứ trung tâm, là vị trí trọng yếu của cuộc khởi nghĩa Ba Đình. Nơi đây từng diễn ra các trận chiến đấu ác liệt giữa nghĩa quân Ba Đình và thực dân Pháp, nơi ghi dấu những chiến công vang dội của nghĩa quân Ba Đình trong lịch sử đồng thời là nơi hội họp tụ nghĩa, nơi tập hợp sức mạnh của các tầng lớp Nhân dân trong tỉnh.

Núi Thúc

 

27

Thôn Thượng Thọ

Thôn Thượng Thọ thuộc xã Ba Đình, huyện Nga Sơn, được thành lập vào năm Thiệu Trị thứ 6 (1846) do ông Nguyễn Hữu Đài cùng một số người khác lập nên. Nơi đây là căn cứ của đồn Thượng trong cuộc khởi nghĩa Ba Đình (do vị trí làng xung quanh có những lũy tre vây kín, phù hợp thành lũy, vì vậy trở thành kiến trúc quân sự của căn cứ Ba Đình). Đồn Thượng do lãnh binh Nguyễn Viết Toại chịu trách nhiệm. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1886 -1887) Thượng Thọ là một trong những căn cứ thuộc hệ thống các căn cứ của cuộc khởi nghĩa Ba Đình. Trong những năm diễn ra cuộc khởi nghĩa Ba Đình, Thượng Thọ trở thành một chiến tuyến phòng ngự quy mô nhất trong thời kỳ Cần Vương chống thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX của cả nước.

Thượng Thọ

 

3.11. Thị xã Nghi Sơn: 74 địa danh

STT

Tên địa danh

Tóm tắt lý lịch

Tên dùng

1

Cầu Đông

Cầu Đông thuộc xã Triêu Dương (nay là phường Hải Ninh), thị xã Nghi Sơn. Đầu thế kỷ XIX, thôn cầu Đông thuộc xã Liên Trì, tổng Liên Trì, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia.

Cầu Đông

2

Cầu Hang

Cầu Hang thuộc phường Ninh Hải, thị xã Nghi Sơn, gắn liền với các sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc ta, đặc biệt là với Nhân dân các dân tộc tỉnh Thanh Hóa trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Cầu Hang

3

Cầu Tam Văn

Cầu Tam Văn thuộc phường Hải Bình, thị xã Nghi Sơn. Năm 1928, do có con hói sâu ngăn cách giữa hai làng Liên Thịnh và Liên Hưng (xã Hải Bình) gây khó khăn cho việc đi lại. Nhân dân trong làng góp sức xây dựng và đặt tên là cầu Tam Văn. Ngày nay, cầu Tam Văn vẫn còn (thuộc địa phận tổ dân phố Liên Hưng), hai bên cầu dân cư đông đúc, mặt đường rộng rãi và được bê tông hóa.

Tam Văn

4

Châu Khê

Châu Khê thuộc thị xã Nghi Sơn, đầu thế kỷ XIX, thôn Chu Khê thuộc xã Liên Trì, tổng Liên Trì, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia. Năm 1948, là nơi diễn ra Đại hội Đảng bộ huyện Tĩnh Gia lần thứ nhất.

Châu Khê

5

Đảo Biện Sơn

Đảo Biện Sơn thuộc thị xã Nghi Sơn, còn gọi là hòn Biện, đảo Nghi Sơn, từ thế kỷ XI, đây là địa danh rất nổi tiếng trong lịch sử đất nước, gắn liền với cuộc hành quân của các hoàng đế thời kỳ Lý, Trần, Lê trong các cuộc Nam chinh bằng đường biển để bảo vệ biên cương Tổ quốc. Năm 1788, Biện Sơn được chọn làm điểm cực Nam của phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn trong cuộc kháng chiến chống quân Thanh xâm lược.

Biện Sơn

6

Đê Hoàng Các

Đê Hoàng Các thuộc 2 xã Mai Lâm và xã Tĩnh Hải, thị xã Nghi Sơn, thực hiện chủ trương của triều đình Lê Sơ khôi phục sản xuất nông nghiệp, Lê Nhân Quý tiến hành đắp đê Hoàng Các, ngăn mặn, khai khẩn ven biển ở quê hương. Theo tộc phả, vào cuối đời Thánh Tông, đầu đời Hiến Tông, ông đắp con đê Hoàng Các từ Tháp Sơn đến cồn Mả Nghè, thôn Vinh Quang dài gần 1km. Đê hoàn thành có tác dụng thau chua, rửa mặn tạo nên một khu đồng ruộng phì nhiêu trải dài từ đê Hoàng Các đến chân núi Đòn, ước khoảng hơn một nghìn mẫu Bắc Bộ, nay thuộc thị xã Nghi Sơn.

Hoàng Các

7

Làng Am

Làng Am thuộc xã Hải Nhân, thị xã Nghi Sơn. Tên một làng cổ nay thuộc thôn Bắc Hải, có từ thế kỷ thứ XVII.

Làng Am

8

Làng Ba Làng

Làng Ba Làng thuộc phường Hải Thanh, thị xã Nghi Sơn, theo tên làng, xã Việt Nam thế kỷ XIX, Ba Làng là tên gọi một làng biển của xã Du Xuyên trước kia thuộc tổng Vân Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, nay là phường Hải Thanh, có đặc sản nước mắm ngon nổi tiếng xứ Thanh. Tên gọi Ba Làng xưa đã in đậm vào tâm thức của người dân nơi đây.

Ba Làng

9

Làng Bài

Làng Bài [142] (còn có tên là làng Bài Liệt), là một trong sáu làng thuộc xã Anh Sơn, huyện Tĩnh Gia, nay là thị xã Nghi Sơn. Làng có đình làng Bài được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh tại Quyết định số 436/QĐ-UBND ngày 31/01/2013. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Làng Bài

10

Làng Bạng

Làng Bạng thuộc phường Bình Minh, thị xã Nghi Sơn, là vùng đất giáp Bạn (giáp biển) còn có tên gọi là Giáp Bạn, biển trai (vùng đất giàu có) làng được thành lập từ thế kỷ 17 cách ngày nay khoảng 360 năm. Nghề nghiệp chính của Nhân dân trong làng là sản xuất nông nghiệp nhưng xưa kia nhờ có sông Kênh Than đi qua, giáp với Lạch Bạng rất thuận cho thuyền bè ở mạn trong ra, mạn ngoài vào buôn bán nên đã sớm hình thành việc buôn bán ở làng, tạo ra khung cảnh một làng quê trên bến dưới thuyền, tấp nập người qua lại.

Làng Bạng

11

Làng Bộ Đầu

Làng Bộ Đầu[143] trước năm 1945, thuộc xã Du Độ, tổng Tuần La, nay thuộc phường Hải Bình, thị xã Nghi Sơn. Năm 1946, xã Du Độ đổi tên thành xã Trấn Hải, năm 1954 chia xã Trấn Hải thành hai xã Hải Bình và Tĩnh Hải. Làng Bộ Đầu sau này được tách làm ba thôn: Liên Hưng, Liên Thịnh và Nam Hải. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Bộ Đầu

12

Làng Cao Lư

Làng Cao Lư[144] là tên gọi cũ của thôn Thắng Hải, xã Tĩnh Hải, huyện Tĩnh Gia, trước năm 1945 thuộc tổng Tuần La; nay là thôn Thắng Hải, xã Tĩnh Hải, thị xã Nghi Sơn. Làng Cao Lư từ xóm 6 đến xóm 9. Đây là địa danh có từ xưa, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Cao Lư

13

Làng Chỉ Trung

Làng Chỉ Trung tên làng cổ thuộc xã Đồng Loan, tổng Duyên La, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, nay là thị xã Nghi Sơn, đến cuối thế kỷ XIX, thôn Chỉ Trung thuộc xã Đồng Đội, tổng Tuần La, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia. Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, thuộc địa bàn xã Trường Lâm. Tháng 9/1954, làng Chỉ Trung thuộc địa bàn xã Mai Lâm, huyện Tĩnh Gia, nay là tổ dân phố Tân Thành, phường Mai Lâm, thị xã Nghi Sơn.

Chỉ Trung

14

Làng Chùa

Làng Chùa[145] là tên gọi cũ của thôn 6, xã Định Hải, huyện Tĩnh Gia, nay là thôn Hồng Kỳ, xã Định Hải, thị xã Nghi Sơn. Đây là địa danh có từ xưa, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Làng Chùa

15

Làng Cộng Phú

Làng Cộng Phú là tên một làng cổ, có từ đầu thế kỷ XIX, thuộc tổng Liên Trì, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, nay là thị xã Nghi Sơn. Trung tâm Phủ lị Tĩnh Gia chuyển về đóng ở làng Cộng Phú khoảng năm 1939 - 1940.

Cộng Phú

16

Làng Đá Bạc

Làng Đá Bạc được đổi tên thành thôn 9, xã Định Hải, thị xã Nghi Sơn, là tên gọi một làng nay là thôn Hồng Kỳ, xã Định Hải. Tên làng Đá Bạc đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Đá Bạc

17

Làng Đông Hải

Làng Đông Hải thuộc thị xã Nghi Sơn, tháng 8 năm 1954, xã Hải Thượng thành lập gồm các làng: Hà Nẫm, Thượng, Trung (Thượng Trung) và Biện Sơn. Làng Thượng lúc đó có 3 làng, trong đó có làng Đông Hải, nay là các tổ dân phố Bắc Hải và Liên Hải.

Đông Hải

18

Làng E

Làng E[146] là tên một trong 2 làng cũ (gọi là làng Yam), thôn Bắc Hải, xã Hải Nhân, huyện Tĩnh Gia; trước năm 1945, thuộc tổng Vân Trai, nay là thôn Bắc Hải, xã Hải Nhân, thị xã Nghi Sơn. Đây là địa danh có từ xưa, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Làng E

19

Làng Hà Nẫm

Làng Hà Nẫm thuộc xã Hải Thượng (cũ), nay thuộc xã Hải Hà, thị xã Nghi Sơn. Năm 1984, xã Hải Thượng tách ra làm 3 xã Hải Thượng, Nghi Sơn, Hải Hà. Xã Hải Hà bao gồm làng Hà Nẫm và Hợp tác xã Quyết Tâm hợp thành. Hà Nẫm còn là một trong ba cửa lạch của thị xã Nghi Sơn là: Lạch Hà Nam, Lạch Bạng, Lạch Ghép.

Hà Nẫm

20

Làng Hiếu Hiền

Làng Hiếu Hiền thuộc xã Hải Châu, tổng Liên Trì, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia. Theo sử cũ, làng Hiếu Hiền xưa có tên là Kẻ Hàn ra đời vào thế kỷ XV dưới triều vua Lê Thánh Tông do một võ quan triều đình về đây khai khẩn dụng làng, lập ấp và đặt tên là Hiếu Hiền, nghĩa là trung hiếu và tài giỏi. Ông được tôn làm Thành Hoàng làng được Nhân dân truyền lại trong văn tế là: “Ông Chưởng Hữu Tướng quân đại vương”. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, làng Hiếu Hiền đã thành lập 3 hợp tác xã nông nghiệp. Năm 1973, hợp thành hợp tác xã Bắc Châu. Đến năm 1991, đổi thành thôn Bắc Châu. Từ tháng 6 năm 2020, trở thành tổ dân phố Bắc Châu, phường Hải Châu, thị xã Nghi Sơn.

Hiếu Hiền

21

Làng Hồ Phú

Làng Hồ Phú gồm 6 thôn phía Bắc xã Hải Lĩnh, thị xã Nghi Sơn, được hình thành từ đầu thế kỷ XII, hiện nay vẫn được Nhân dân quen gọi.

Hồ Phú

22

Làng Khả La

Làng Khả La thuộc thị xã Nghi Sơn, năm 1945, xã Hải Bình gồm 4 làng: Như Áng, Khả La, Du Độ và Bộ Đầu. Năm 1999, tên làng Khả La được đổi tên là thôn Đoan Hùng (nay là tổ dân phố Đoan Hùng). Ngày nay, mặc dù đã được đổi tên nhưng trên cổng nhà văn hóa của thôn vẫn có tên làng Khả La như một cách để con cháu nhớ về cội nguồn của mình.

Khả La

23

Làng Khánh Trạch

Làng Khánh Trạch thuộc thị xã Nghi Sơn, là vùng đất phía Đông Nam xã Bình Minh (nay là phường Bình Minh) là điểm nhô ra gần cửa sông Bà Hòa (sông Bạng nay) là vùng giáp Bạng. Cư dân sinh sống lâu đời có nhiều ngành nghề truyền thống, như đi biển, đi trẩy, làm ruộng, chặt củi, đốt than, làm bánh bún và buôn bán. Nhiều gia đình giàu có, sắm thuyền, đào lạch để vận chuyển mắm chượp ra xứ Bắc Kỳ buôn bán. Nhân dân làng Khánh Trạch qua nhiều thế hệ luôn chí thú làm ăn, xây dựng quê hương và giữ gìn nét đẹp văn hóa. Làng có đền Khánh Trạch và chùa Thiên Vương.

Khánh Trạch

24

Làng Kim Cốc

Làng Kim Cốc thuộc xã Đồng Đội, tổng Tuần La, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia; sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, thuộc địa bàn xã Trường Lâm. Tháng 9/1954, làng Kim Cốc thuộc địa bàn xã Mai Lâm, huyện Tĩnh Gia nay thuộc 2 tổ dân phố Kim Sơn, Kim Phú, phường Mai Lâm, thị xã Nghi Sơn. Tên làng Kim Cốc đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Kim Cốc

25

Làng Kỳ Lọng

Làng Kỳ Lọng thuộc xã An Mỹ, tổng Văn Trường, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia. Cuối thế kỷ XIX, thuộc địa bàn xã Yên Mỹ, tổng Yên Thái, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia. Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, thôn Kỳ Lọng thuộc địa bàn xã Hải Lĩnh, huyện Tĩnh Gia. Từ tháng 6/1954, thuộc địa bàn xã Định Hải, huyện Tĩnh Gia. Hiện nay thôn Kỳ Lọng thuộc địa bàn thôn Hồng Kỳ, xã Định Hải, thị xã Nghi Sơn.

Kỳ Lọng

26

Làng Nạp Cá

Làng Nạp Cá[147] thuộc xã Định Hải, huyện Tĩnh Gia, sau được tách thành thôn 1 và thôn 2, xã Định Hải, thị xã Nghi Sơn. Đây là địa danh có từ xưa, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Nạp Cá

27

Làng Nguyệt Chư

Làng Nguyệt Chư[148] thuộc xã Liên Trì, tổng Liên Trì, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, nay là thôn 10, xã Ngọc Lĩnh, thị xã Nghi Sơn. Đây là địa danh có từ xưa, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Nguyệt Chư

28

Làng Nhân Vũ

Làng Nhân Vũ thuộc xã Nguyệt Quật, tổng Vân Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, là tên một làng cổ, ăn sâu vào tiềm thức Nhân dân, nay thuộc phường Nguyên Bình, thị xã Nghi Sơn.

Nhân Vũ

29

Làng Ô Cách

Làng Ô Cách thuộc xã Liên Trì, tổng Liên Trì, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, là làng cổ, ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân, nay là thôn 9, xã Ngọc Lĩnh, thị xã Nghi Sơn.

Ô Cách

30

Làng Phong Thái

Làng Phong Thái thuộc xã Liên Trì, tổng Liên Trì, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, thuộc địa bàn của tổ dân phố 1,2,3, phường Hải An ngày nay. Tên làng Phong Thái đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Phong Thái

31

Làng Phú Long

Làng Phú Long thuộc xã Định Hải, sau được đổi tên thành thôn 8, xã Định Hải, huyện Tĩnh Gia (nay là thị xã Nghi Sơn). Tên làng Phú Long đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Phú Long

32

Làng Phú Thái

Làng Phú Thái thuộc xã Định Hải, thị xã Nghi Sơn, sau được tách thành thôn 3 và thôn 4, xã Định Hải. Tên làng Phú Thái đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Phú Thái

33

Làng Phúc Mỹ

Làng Phúc Mỹ là làng cổ, trước thuộc xã Liên Trì, tổng Liên Trì, phủ Tĩnh Gia nay là thôn 8, xã Ngọc Lĩnh, thị xã Nghi Sơn. Tên làng Phúc Mỹ đã ăn sâu vào tâm thức của Nhân dân.

Phúc Mỹ

34

Làng Sen Hồ

Làng Sen Hồ là làng cổ, trước thuộc tổng Liên Trì, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, nay là thôn 16, xã Ngọc Lĩnh, thị xã Nghi Sơn. Tên làng Sen Hồ đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Sen Hồ

35

Làng Thịnh Hùng

Làng Thịnh Hùng thuộc thị xã Nghi Sơn, sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, xã Tân Dân được thành lập, trước đó xã Tân Dân thuộc phủ Ngọc Sơn, tổng Sen Trì (Liên Trì). Làng Thịnh Hùng là một trong 6 làng của Tân Dân lúc bấy giờ, nay làng Thịnh Hùng có tên gọi là tổ dân phố Hồ Thịnh.

Thịnh Hùng

36

Làng Thọ Cửu

Làng Thọ Cửu là làng cổ, trước thuộc xã Tân Dân, trước 1945 thuộc phủ Ngọc Sơn, tổng Sen Trì (Liên Trì). Làng Thọ Cửu là một trong 6 làng của Tân Dân lúc bấy giờ, nay làng Thọ Cửu có tên gọi là tổ dân phố Tiền Phong.

Thọ Cửu

37

Làng Thọ Quan

Làng Thọ Quan, là làng cổ, trước thuộc địa bàn xã Nguyệt Quật, tổng Vân Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, nay thuộc phường Nguyên Bình, thị xã Nghi Sơn.

Thọ Quan

38

Làng Thổ Sơn

Làng Thổ Sơn là làng cổ, trước thuộc địa bàn xã Vân Liễn, tổng Liên Trì, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, nay thuộc phường Nguyên Bình. Từ năm Minh Mệnh thứ 4 (1823), Thổ Sơn trở thành Trung tâm Phủ lị Tĩnh Gia.

Thổ Sơn

39

Làng Thượng Chiểu

Làng Thượng Chiểu là làng cổ, trước thuộc tổ dân phố Hồng Phong, Đại Thắng. Làng ở vị trí trung tâm phường Hải Lĩnh, được vua Minh Mạng đặt tên là Thượng Chiếu (do cụm dân cư sản xuất chiếu cói rất nổi tiếng) sau này phát âm không rõ và đổi thành “Chiểu” cho đến nay. Hiện nay vẫn được Nhân dân quen dùng.

Thượng Chiểu

40

Làng Thượng Trung

Làng Thượng Trung là một trong bốn làng của Hải Thượng cũ, sau khi Hải Thượng tách ra thành 3 xã là Hải Thượng, Hải Hà và Nghi Sơn vào năm 1984.

Thượng Trung

41

Làng Tiên Vực

Tiên Vực, là làng cổ, trước thuộc xã Liên Xá, tổng Liên Trì, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, nay thuộc tổ dân phố 4, phường Hải An. Tên làng Tiên Vực đã ăn sâu vào tâm thức của Nhân dân.

Tiên Vực

42

Làng Trung Dịch

Làng Trung Dịch, là làng cổ, trước thuộc xã Đồng Đội, tổng Tuần La, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia. Tháng 10/1945, xã Tĩnh Hải được thành lập gồm làng Trung Dịch, làng Cao Lư, làng Trung Dịch từ xóm 10 đến xóm 12 nay là tổ dân phố Trung Sơn.

Trung Dịch

43

Làng Văn Liễn

Làng Văn Liễn nay thuộc thôn Nhân Sơn, xã Hải Nhân, thị xã Nghi Sơn, tên một làng có từ thế kỷ thứ XVII.

Văn Liễn

44

Làng Văn Mỹ

Làng Văn Mỹ thuộc thôn Nam Châu, thị xã Nghi Sơn. Trước cách mạng tháng 8 năm 1945 là làng Văn Mỹ, Đa Văn. Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành hợp tác xã Văn Hoàng - Liên Châu. Sau đó là Tân Liên Hoa, năm 1973 thành hợp tác xã Nam Châu. Đến năm 1991 đổi thành thôn Nam Châu.

Văn Mỹ

45

Làng Viện Trung

Làng Viện Trung là làng cổ, trước thuộc phường Hải An, thị xã Nghi Sơn, còn gọi là Xuân Viện Trung, là tên gọi một làng thuộc xã Liên Trì, tổng Liên Trì, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia. Từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, làng Viện Trung thuộc xã Việt Hòa. Năm 1948 thuộc xã Triêu Dương. Tháng 8/1954, làng Viện Trung tách ra khỏi xã Triêu Dương sáp nhập với làng Xuân Thái, Xuân Viện Đông thuộc xã Hải Châu thành lập xã Hải An. Thôn Viện Trung nay là tổ dân phố 3,5 phường Hải An.

Viện Trung

46

Núi Lâm Động

Núi Lâm Động thuộc xã Phú Sơn, thị xã Nghi Sơn, chỉ tên một đỉnh núi với độ cao hơn 800m so với mực nước biển. Trong kháng chiến chống Mỹ, núi Lâm Động có vị trí quan trọng, là nơi đóng quân của bộ đội ta để bảo vệ đảo Mê (bảo vệ các vị trí chiến lược, vùng trời, vùng biển phía Nam của huyện như: Cảng Nghi Sơn, cầu Hổ, cầu Đồi).

Lâm Động

47

Thôn Cư Nhân

Thôn Cư Nhân thuộc xã Xuân Lâm, thị xã Nghi Sơn. Đầu thế kỷ XIX, thôn Cư Nhân thuộc xã Vân Trai, tổng Vân Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia.

Cư Nhân

48

Thôn Đồng Bói

Thôn Đồng Bói là tên gọi cũ của thôn Nam Sơn, thuộc xã Phú Sơn, thị xã Nghi Sơn ngày nay, năm 1976, thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề khai hoang phục hóa mở rộng diện tích canh tác. Thực hiện chủ trương của Huyện ủy và Ủy ban nhân dân huyện Tĩnh Gia, đồng thời đây cũng là nguyện vọng của Nhân dân mong muốn khai phá vùng đất phía Tây Nam huyện Tĩnh Gia, vùng đất khai hoang chủ yếu là: Đồng Lảnh (thôn Đông Sơn), Đồng Bói (thôn Nam Sơn), Trại Bò (thôn Trung Sơn), Bái Lợn (thôn Bình Sơn); Rừng Cấm (thôn Bắc Sơn và Bình Sơn).

Đồng Bói

49

Thôn Đồng Lảnh

Thôn Đồng Lảnh là tên gọi cũ của thôn Đông Sơn, thuộc xã Phú Sơn, thị xã Nghi Sơn ngày nay. Năm 1976, thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề khai hoang phục hóa mở rộng diện tích canh tác. Thực hiện chủ trương của Huyện ủy và Ủy ban nhân dân huyện Tĩnh Gia, đồng thời đây cũng là nguyện vọng của Nhân dân mong muốn khai phá vùng đất phía Tây Nam huyện Tĩnh Gia, vùng đất khai hoang chủ yếu là: Đồng Lảnh (thôn Đông Sơn), Đồng Bói (thôn Nam Sơn), Trại Bò (thôn Trung Sơn), Bái Lợn (thôn Bình Sơn); Rừng Cấm (thôn Bắc Sơn và Bình Sơn).

Đồng Lảnh

50

Thôn Đồng Từ

Thôn Đồng Từ thuộc xã Hải Nhân, thị xã Nghi Sơn ngày nay, tên gọi Bờ Đồng có từ trước năm 1954 sau ghép với phố Đào Duy Từ để thành thôn Đồng Từ (xã Hải Nhân).

Đồng Từ

51

Thôn Dũ Hiền

Thôn Dũ Hiền thuộc xã Hải Nhân, thị xã Nghi Sơn. Đầu thế kỷ XIX, thôn Dũ Hiền thuộc xã Chu Bàn, tổng Liên Trì, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia.

Dũ Hiền

52

Thôn Hào Vịnh

Thôn Hào Vịnh nay thuộc xã Định Hải, thị xã Nghi Sơn. Cuối thế kỷ XIX, thuộc địa bàn xã Yên Mỹ, tổng Yên Thái, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia. Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, thôn Hào Vịnh thuộc địa bàn xã Hải Lĩnh, huyện Tĩnh Gia. Hiện nay, thôn Hào Vịnh thuộc địa bàn thôn Hồng Quang, xã Định Hải, thị xã Nghi Sơn.

Hào Vịnh

53

Thôn Hậu Thôn

Thôn Hậu Thôn thuộc xã Ngọc Lĩnh, thị xã Nghi Sơn, trước đây là tên một thôn thuộc xã Sen Hồ, tổng Liên Trì, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, nay là thôn 13, xã Ngọc Lĩnh.

Hậu Thôn

54

Thôn Hiều Môn

Làng Hiều Môn thuộc khu vực phía nam xã Hải Lĩnh, thị xã Nghi Sơn nay thuộc tổ dân phố Đại Quang và một phần diện tích tổ dân phố Đại Thắng. Hiện tên gọi Hiều Môn vẫn được Nhân dân quen dùng.

Hiều Môn

55

Thôn Hồ Nam

Thôn Hồ Nam thuộc thị xã Nghi Sơn, trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, năm 1945 thuộc làng Hồ Thượng, xã Tân Dân, phủ Ngọc Sơn, tổng Sen Trì (Liên Trì). Sau năm 1955, làng Hồ Thượng đổi tên thành thôn Hồ Nam. Ngày 11/7/2018 thôn Hồ Nam sáp nhập với thôn Hồ Đông thành thôn Hồ Thượng, nay là tổ dân phố Hồ Thượng, thị xã Nghi Sơn.

Hồ Nam

56

Thôn Hữu Lại

Thôn Hữu Lại, tên gọi xưa, ăn sâu vào tiềm thức Nhân dân, trước thuộc xã Đồng Đội, tổng Duyên La, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia. Đến cuối thế kỷ XIX, thôn Hữu Lại thuộc xã Đồng Đội, tổng Tuần La, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia. Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, thuộc địa bàn xã Trường Lâm. Tháng 9/1954, làng Hữu Lại thuộc địa bàn xã Mai Lâm, huyện Tĩnh Gia. Hiện nay, địa bàn thôn Hữu Lại thuộc địa bàn phường Mai Lâm bao gồm các tổ dân phố Hữu Nhân, Hữu Tài, Hải Lâm, Mai Lâm.

Hữu Lại

57

Thôn Năng Cải

Thôn Năng Cải, tên gọi xưa, ăn sâu vào tiềm thức Nhân dân. Đầu thế kỷ XIX, thôn Năng Cải thuộc địa bàn xã Hải Châu, tổng Liên Trì, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia. Trước năm 1823, phủ lỵ Tĩnh Gia đóng ở thôn Năng Cải, nay là khu vực chợ Kho của phường Hải Ninh; từ năm 1823, chuyển về Thổ Sơn, xã Vân Trai (nay thuộc phường Nguyên Bình, thị xã Nghi Sơn).

Năng Cải

58

Thôn Nhân Trai

Thôn Nhân Trai, tên gọi xưa, ăn sâu vào tiềm thức Nhân dân, trước thuộc xã Vân Trai, tổng Vân Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, nay là xã Hải Nhân, thị xã Nghi Sơn.

Nhân Trai

59

Thôn Phù Cư

Thôn Phù Cư, tên gọi xưa, ăn sâu vào tiềm thức Nhân dân, trước thuộc xã Trà Lâm (gồm các thôn: Phù Cư, Lan Trà, Hữu Lộc, Thanh Thủy, Giảng Tín), thị xã Nghi Sơn. Kháng chiến chống Pháp thắng lợi, ngày 12 tháng 9 năm 1954 quyết định chia các xã lớn thành xã nhỏ, xã Xuân Lâm được chia thành 2 xã: xã Trúc Lâm (gồm các thôn Đại Thủy, Hữu Lộc, Giảng Tín, Lan Trà). Thôn Phù Cư được ghép vào thôn Lan Trà.

Phù Cư

60

Thôn Quan Nội

Thôn Quan Nội, tên gọi xưa, ăn sâu vào tiềm thức Nhân dân, đầu thế kỷ XIX thuộc xã Phù Sa, tổng Vân Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia.

Quan Nội

61

Thôn Thanh Thủy

Thôn Thanh Thủy, tên gọi xưa, ăn sâu vào tiềm thức Nhân dân, trước thuộc xã Trà Lâm (gồm các thôn: Phù Cư, Lan Trà, Hữu Lộc, Thanh Thủy, Giảng Tín), kháng chiến chống Pháp thắng lợi, ngày 12 tháng 9 năm 1954, quyết định chia các xã lớn thành xã nhỏ, xã Xuân Lâm được chia thành 2 xã: xã Trúc Lâm (gồm các thôn Đại Thủy, Hữu Lộc, Giảng Tín, Lan Trà). Thôn Thanh Thủy được ghép vào thôn Giảng, nay thuộc thị xã Nghi Sơn.

Thanh Thủy

62

Thôn Văn Lâm

Thôn Văn Lâm, tên gọi xưa, ăn sâu vào tiềm thức Nhân dân, trước thuộc địa bàn xã Đồng Đội, tổng Duyên La, rồi Tuần La, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia. Năm Thành Thái thứ 7 (1895), thôn Văn Lâm đổi thành thôn Văn Yên. Thôn Văn Yên thuộc địa bàn xã Ninh Hải, nay thuộc xã Hải Yến, thị xã Nghi Sơn.

Văn Lâm

63

Thôn Văn Yên

Thôn Văn Yên, tên gọi xưa, ăn sâu vào tiềm thức Nhân dân, tên gọi thôn Văn Yên có từ cuối thế kỷ XIX vốn là một dải đất ven biển ở phía Đông Bắc thôn Ngọc Đường, xã Ninh Hải. Từ khá lâu đời, cư dân nơi khác đến định cư làm nghề ngư bãi ngang và buôn bán, trong đó hải sản là mặt hàng chủ yếu, nay thuộc thôn Ngọc Đường, xã Ninh Hải, thuộc thị xã Nghi Sơn.

Văn Yên

64

Thôn Viện Đông

Thôn Viện Đông, tên gọi xưa, ăn sâu vào tiềm thức Nhân dân, đầu thế kỷ XIX, Viện Đông là tên gọi một làng thuộc xã Liên Trì, tổng Liên Trì, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia. Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, thôn Viện Đông thuộc xã Hồng Thái, huyện Tĩnh Gia; năm 1948 thuộc xã Hải Châu. Từ tháng 8 năm 1954, thuộc địa bàn xã Hải An, nay thuộc tổ dân phố 1, 2, 3 phường Hải An.

Viện Đông

65

Thôn Yên Châu

Thôn Yên Châu, tên gọi xưa, ăn sâu vào tiềm thức Nhân dân. Khoảng năm Tự Đức thứ 8 (1855) do một dân cư sở tại và dân từ làng Cự Nham (Quảng Xương) và Liên Trì (Ngọc Sơn) lập nên với tên gọi là thôn Hoài Yên. Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, thôn Yên Châu thuộc địa phận làng Hoài Yên, xã Hải Châu, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia. Sau Cách mạng tháng Tám, hợp tác xã Yên Châu, xã Hải Châu được thành lập. Năm 1966, hợp tác xã Yên Châu vinh dự được chủ tịch Hồ Chí Minh tặng cờ luân lưu. Đến năm 1991, hợp tác xã Yên Châu đổi thành thôn Yên Châu. Từ tháng 6 năm 2020, trở thành tổ dân phố Yên Châu, phường Hải Châu, thị xã Nghi Sơn.

Yên Châu

66

Xã Du Độ

Xã Du Độ, tên gọi xưa, ăn sâu vào tiềm thức Nhân dân, đầu thế kỷ XIX thuộc tổng Duyên La, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia. Đến năm 1945, là một làng thuộc xã Hải Bình (Như Áng, Khả La, Du Độ và Bộ Đầu). Làng Du Độ sau được đổi tên là thôn Tiền Phong (nay là tổ dân phố Tiền Phong).

Du Độ

67

Xã Hào Môn

Xã Hào Môn tên gọi xưa, ăn sâu vào tiềm thức Nhân dân. Đầu thế kỷ XIX, xã Hào Môn thuộc tổng Liên Trì, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, nay thuộc thôn Hồng Quang, xã Định Hải, thị xã Nghi Sơn.

Hào Môn

68

Xã Hùng Sơn

Xã Hùng Sơn, tên gọi xưa, ăn sâu vào tiềm thức Nhân dân, được thành lập 1954 gồm các thôn Liên Sơn, Đông, Ngọc Sơn, Thượng, Thái thuộc thị xã Nghi Sơn. Ngày 16/10/2019, xã Hùng Sơn sáp nhập vào xã Các Sơn và lấy tên là xã Các Sơn. Tên Hùng Sơn mãi in đậm trong tâm thức của người dân nơi đây.

Hùng Sơn

69

Xã Lê Xá

Xã Lê Xá, tên gọi xưa, ăn sâu vào tiềm thức Nhân dân. Đầu thế kỷ XIX, xã Lê Xá thuộc tổng Vân Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, nay thuộc phường Hải Hòa, thị xã Nghi Sơn.

Lê Xá

70

Hợp tác xã Liên Hải

Hợp tác xã Liên Hải là tên hợp tác xã sản xuất và đánh bắt cá thuộc xã Hải Bình, huyện Tĩnh Gia, nay là thị xã Nghi Sơn. Hợp tác xã ra đời từ những năm 1960, từ khi thành lập hợp tác xã, nghề cá ở đây ngày càng được phát triển, đời sống Nhân dân được nâng lên, góp phần tích cực vào thành công phong trào hợp tác hóa nông nghiệp trên địa bàn huyện Tĩnh Gia những năm 60 của thế kỷ XX. Tên hợp tác xã Liên Hải đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Liên Hải

71

Xã Liên Xá

Xã Liên Xá, tên gọi xưa, ăn sâu vào tiềm thức Nhân dân, trước thuộc tổng Liên Trì, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, gồm các thôn: Hồ Trung, Hồ Trung Trình, Hồ Thượng, Hồ Trung Thượng, Nhân Vực, Hồ Bảo. Trung tâm Phủ lị Tĩnh Gia chuyển về đóng ở Liên Xá năm Tự Đức thứ 3 (1849), nay thuộc phường Tân Dân, thị xã Nghi Sơn.

Liên Xá

72

Xã Trà Lâm

Xã Trà Lâm, tên gọi xưa, ăn sâu vào tiềm thức Nhân dân (gồm các thôn: Phù Cư, Lan Trà, Hữu Lộc, Thanh Thủy, Giảng Tín), có từ trước 1954, nay là xã Trúc Lâm, thị xã Nghi Sơn.

Trà Lâm

73

Xã Trấn Hải

Xã Trấn Hải tên gọi xưa, ăn sâu vào tiềm thức Nhân dân, là tên gọi trước đây của xã Hải Bình. Từ tháng 4 năm 1946 đến tháng 7 năm 1947, thực hiện chủ trương của cấp trên sáp nhập các xã nhỏ thành xã lớn nên xã Trấn Hải và xã Tĩnh Hải hợp nhất lấy tên là xã Hải Bình, thuộc thị xã Nghi Sơn.

Trấn Hải

74

Xã Triêu Dương

Xã Triêu Dương, tên gọi xưa, ăn sâu vào tiềm thức Nhân dân. Tên gọi này có từ xa xưa, năm 1948 sáp nhập các xã Việt Hòa, Tân Dân và Ngọc Lĩnh thành lập xã Triêu Dương. Năm 1954, xã Triêu Dương chia thành 3 xã Triêu Dương, Ngọc Lĩnh, Tân Dân và một phần xã Hải An. Năm 2019, xã Triêu Dương sáp nhập vào xã Hải Ninh, nay là phường Hải Ninh, thị xã Nghi Sơn.

Triêu Dương

3.12. Huyện Ngọc Lặc: 05 địa danh

STT

Tên địa danh

Tóm tắt lý lịch

Tên dùng

1

Châu Ngọc[149]

Châu Ngọc, tên gọi xưa, ăn sâu vào tiềm thức Nhân dân. Trước năm 1900 thuộc Mường Chẹ, sau thuộc tổng Yên Trường và 2/3 tổng Quảng Trị thuộc phủ Thiệu Hóa, huyện Thụy Nguyên. Châu Ngọc là tên gọi vùng đất chủ yếu của huyện Ngọc Lặc ngày nay.

Châu Ngọc

2

Làng Ngọc Châu

Làng Ngọc Châu, tên gọi xưa, ăn sâu vào tiềm thức Nhân dân, trước đây gọi là làng Bống thuộc xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc, là quê hương của Lê Hiểm, một công thần khai quốc triều Hậu Lê, có đóng góp vào thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn. Hiện nay, đền thờ vẫn còn dấu vết ở làng Thành Sơn (làng Giác, xã Kiên Thọ) vùng đất này còn là nơi lưu truyền huyền thoại về "Chúa Lam Sơn" và nghĩa quân Lam Sơn, trong đó có huyền thoại về thanh gươm thần của Lê Lợi.

Ngọc Châu

3

Làng Riếng

Làng Riếng, tên gọi xưa, ăn sâu vào tiềm thức Nhân dân, nơi đây có đền làng Riếng (tiếng Mường gọi là Lôồng Riềng) thờ Thánh Gióng - vị thánh trong “Tứ bất tử” của tín ngưỡng dân gian Việt Nam, đền được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa tại Quyết định số 180/QĐ-UBND ngày 15/1/2016. Nay làng Riếng thuộc xã Quang Trung, huyện Ngọc Lặc.

Làng Riếng

4

Làng Thành Sơn

Làng Thành Sơn là làng cổ, quê hương của Lê Lai và gia tộc Lê Lai, Lê Lư, Lê Lộ, Lê Lâm - đều là dũng tướng tài giỏi, đóng góp cho khởi nghĩa Lam Sơn đi đến thắng lợi. Làng Thành Sơn nay thuộc xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc.

Thành Sơn

5

Mường[150] Chẹ

Mường Chẹ, tên một trong bốn vùng Mường cổ của Thanh Hóa, trước năm 1945 thuộc xã Cao Khê, Mỹ Khê, nay thuộc xã Mỹ Tân, huyện Ngọc Lặc.

Mường Chẹ

3.13. Huyện Như Thanh: 05 địa danh

STT

Tên địa danh

Tóm tắt lý lịch

Tên dùng

1

Căn cứ Ổn Lâm - Kỳ Thượng

Căn cứ Ổn Lâm - Kỳ Thượng thuộc xã Thanh Kỳ, huyện Như Thanh, là căn cứ của đội quân Lang Bôn người Thái, được Nguyễn Phương hợp nhất xây dựng thành căn cứ trong phong trào Cần Vương chống Pháp ở Nam Nông Cống. Ngày 26/4/1886, Tê Ri Ông (Terrillon) đã tiến hành cuộc hành quân tấn công vào căn cứ Ổn Lâm-Kỳ Thượng. Tú Phương và Tôn Thất Hàm tổ chức nghĩa binh, chống cự ác liệt, vì vũ khí quân giặc tối tân, nghĩa quân chống lại không nổi, một năm sau, căn cứ bị hoàn toàn thất thủ, các thủ lĩnh bị bắt, nhiều người bị chém đầu.

Ổn Lâm - Kỳ Thượng

2

Cầu Châu

Cầu Châu là tên cây cầu thuộc huyện Như Thanh, cầu được hình thành từ những năm 1893, khi chính quyền địa phương và Tổng đốc Thanh Hóa, Toàn quyền Đông Dương thành lập châu Như Xuân (gồm 4 tổng: Tổng Như Lăng, tổng Xuân Du, tổng Lãng Lăng, tổng Hạ Thưởng) tiến hành xây dựng châu lỵ tại Bến Sung và làm tuyến đường (nối với đường 10 ngày nay) và xây dựng cây cầu qua tuyến đường đặt tên là Cầu Châu. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Cầu Châu

3

Đền Phủ Sung

Đền Phủ Sung thuộc thị trấn Bến Sung, xã Hải Vân, huyện Như Thanh, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân, gắn với di tích Phủ Sung có từ thế kỷ XIX, di tích nằm ở trung gian nơi gặp gỡ của miền ngược và miền xuôi, nơi bắt đầu của chặng hành trình về với Bến En xanh.

Phủ Sung

4

Đồi 20

Đồi 20 tên gọi xưa, ăn sâu vào tiềm thức Nhân dân, là căn cứ cách mạng, là địa danh trồng cây cà phê nổi tiếng. Từ thời Pháp, khi người Pháp đến khảo sát địa hình đất, loại đất này hợp với cây cà phê và người Pháp phân lô trồng cây cà phê lô số 20, từ đó lấy tên là Đồi 20. Trong kháng chiến chống Mỹ, Đồi 20 trở thành điểm trực chiến của dân quân du kích xã Hải Vân. Nay Đồi 20, thuộc xã Hải Vân, huyện Như Thanh.

Đồi 20

5

Đồi Lô Cả

Đồi Lô Cả thuộc huyện Như Thanh, nơi đây thực dân Pháp đã xây dựng đồn điền cà phê tại các khu vực đồi 20, 21 và các vùng lân cận, chúng tìm người Việt để cai quản, chăm sóc đồn điền, đồng thời mộ phu trồng cà phê. Người từ khắp nơi đổ về cư ngụ tại vùng Xuân Điền, thị trấn Bến Sung ngày nay do một quan tây Alô cai quản, cũng bắt nguồn từ đó Nhân dân thường gọi đồi Lô Cả cho đến nay.

Lô Cả

3.14. Huyện Như Xuân: 07 địa danh

STT

Tên địa danh

Tóm tắt lý lịch

Tên dùng

1

Hang Đồng Mười

Hang Đồng Mười thuộc xã Xuân Hòa, huyện Như Xuân, là một trong những nơi hoạt động của các chí sĩ yêu nước trong phong trào Cần Vương chống Pháp và có sự liên kết chặt chẽ với các nghĩa quân của Lương Ngọc Toản và Nguyễn Phương. Đây cũng là nơi đặt xưởng quân khí đầu tiên của quân đội ta, sau bị Pháp đánh bom, chuyển về Lò Cao kháng chiến Hải Vân.

Đồng Mười

2

Núi Bù Mun

Núi Bù Mun thuộc xã Hóa Quỳ, huyện Như Xuân. Núi Bù Mun là địa bàn hoạt động của Cầm Bá Thước và thủ lĩnh người Thổ là Lê Đình Tại trong phong trào Cần Vương chống Pháp. Địa bàn hoạt động của nghĩa quân chủ yếu ở 2 tổng Lãng và Như Lăng và có sự kết hợp chặt chẽ với các đội quân ở phía tây Nghệ An. Dưới chân núi là nơi sinh sống của đồng bào 4 dân tộc: Thái, Mường, Thổ, Kinh với bản làng trù phú.

Bù Mun

3

Núi Pù Hàm

Núi Pù Hàm là tên một đỉnh núi ở huyện Như Xuân cao 1.119m, là dãy núi tự nhiên phân định ranh giới giữa hai huyện Như Xuân và Quỳ Châu (Nghệ An). Là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Pù Hàm

4

Thác Cổng Trời

Thác Cổng Trời thuộc xã Hóa Quỳ, huyện Như Xuân, là một khu vực sinh thái tự nhiên đặc sắc, nơi đây có dãy núi Bù Mùn cao hơn 1.000m. Thác Cổng Trời khởi nguồn từ các khe suối lớn nhỏ thuộc dãy núi Bù Mùn, thác có độ cao từ 10 - 12m. Hiện tại đang được chính quyền địa phương và các ngành có liên quan quản lý, gìn giữ, bảo tồn và hướng dẫn khách tham quan du lịch. Là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Cổng Trời

5

Thác Đồng Quan

Thác Đồng Quan thuộc thôn Đồng Quan, xã Hóa Quỳ, huyện Như Xuân, là một khu vực sinh thái tự nhiên, khởi đầu từ núi Bù Mùn có độ cao hơn 1.000 m: Thác có độ cao gần 700 m có 5 tầng thác: Thác Tiên, thác Trượt, thác Tà Sáy, thác Đất Đỏ, thác Tà Phục. Mỗi tầng thác có độ cao từ 12-15m có nước chảy quanh năm. Hiện tại đang được chính quyền địa phương và các ngành có liên quan quản lý, gìn giữ, bảo tồn và hướng dẫn khách tham quan du lịch. Thác đã được xếp hạng di tích danh lam thắng cảnh cấp tỉnh. Là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Đồng Quan

6

Xã Quảng Dạ

Xã Quảng Dạ thuộc huyện Như Xuân, nay là xã Xuân Bình, Bãi Trành, trong thời kỳ Pháp thuộc có phong trào đấu tranh mạnh mẽ chống lại các chủ đồn điền mở rộng diện tích cà phê, cao su... Là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Quảng Dạ

7

Xã Yên Cát

Xã Yên Cát là một xã lớn có trước năm 1954 của huyện Như Xuân, nay thuộc địa bàn các xã Hóa Quỳ, thị trấn Yên Cát...Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, khu an toàn khu Đồng Ớt, xã Yên Cát (nay thuộc địa bàn xã Hóa Quỳ). Là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Yên Cát

3.15. Huyện Nông Cống: 09 địa danh

STT

Tên địa danh

Tóm tắt lý lịch

Tên dùng

1

Bến Chuồng

Bến Chuồng là địa danh thuộc xã Công Chính của huyện Nông Cống. Ngã ba Bến Chuồng đi 3 hướng, 1 hướng đi thị trấn Nông Cống, 1 hướng đi thị xã Nghi Sơn và 1 hướng đi xã Yên Mỹ (nông trường Yên Mỹ cũ) qua dốc Bò Lăn sang Nghệ An và đường mòn Hồ Chí Minh. Bến Chuồng là địa điểm tập kết lương thực, vũ khí của lực lượng thanh niên xung phong tỉnh Thanh Hóa, nơi đây có cầu Chuồng bắc qua sông Thị Long nằm trên đường huyết mạch 12B lên Bò Lăn, vì vậy cung đường Chuồng - Bò Lăn là trọng điểm đánh phá liên tục không ngừng của máy bay, pháo từ tàu chiến Mỹ trong những năm chiến tranh phá hoại chống Mỹ. Là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Bến Chuồng

2

Căn cứ Hương Trì

Căn cứ Hương Trì, đây là một địa danh cách mạng trong phong trào Cần Vương của huyện Nông Cống. Phong trào này hoạt động rầm rộ, sau này phát triển lớn thành Ổn Lâm - Kỳ Thượng, tên địa danh gắn liền với nhân vật Tú Phương. Khi Tú Phương được Tôn Thất Thuyết giao cho chức Tham Biện Sơn Hải Phòng quân vụ, kiêm cả phủ Tĩnh Gia (gồm ba huyện: Nông Cống - Tĩnh Gia - Quảng Xương), ông liên hệ với cụ Nguyễn Xuân Ôn là lãnh tụ Cần Vương ở Nghệ An, xây dựng căn cứ Hương Trì. Là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Hương Trì

3

Chùa Vĩnh Thái[151]

Chùa Vĩnh Thái thuộc xã Hoàng Giang, huyện Nông Cống gắn với di tích lịch sử cách mạng, đồng thời là cơ sở hoạt động cách mạng hai huyện Nông Cống và Thọ Xuân giai đoạn 1930-1945. Địa danh gắn liền với cố Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh giai đoạn (1939-1941) khi ông được phân công về miền Trung củng cố xây dựng xứ ủy Trung Kỳ.

Vĩnh Thái

4

Đồn điền Bãi Áng

Đồn điền Bãi Áng thuộc huyện Nông Cống, do tư sản người Pháp làm chủ, xưa kia đồn điền này lớn, mấy ngàn ha. Từ Cổ Định vào Bãi Áng, dọc theo núi Nưa trong lòng đất là một vệt dài quặng cromitte. Trước năm 1945, chủ người Pháp bán cho ông Hàn, sau đó bán cho Tôn Thất Tiễn. Ngày nay, địa danh Bãi Áng vẫn được quen dùng và là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Bãi Áng

5

Làng Cổ Đôi

Làng Cổ Đôi thuộc xã Hoàng Giang, huyện Nông Cống, là tên làng nổi tiếng khoa bảng của huyện Nông Cống xưa, (dân gian có câu Nông Cống Cổ Đôi - Cổ Định) đã đi vào tiềm thức người dân Nông Cống.

Cổ Đôi

6

Làng Đông Cao

Làng Đông Cao thuộc xã Trung Chính, huyện Nông Cống, là làng văn hóa đầu tiên của tỉnh Thanh Hóa và là làng văn hóa thứ 2 của cả nước. Làng có di tích đình làng Đông Cao (nơi thờ Đinh Lễ, Đinh Bồ, Đinh Liệt) được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa tại Quyết định số 4732/QĐ-UBND ngày 30/12/2013.

Đông Cao

7

Làng Phú Đa Hậu

Làng Phú Đa Hậu, là làng cổ, nay thuộc xã Tượng Văn, huyện Nông Cống, là một trong những làng ra đời từ rất sớm mang nhiều giá trị lịch sử văn hóa. Đặc biệt làng có đình làng Phú Đa Hậu, nơi thờ Thần Hoàng làng được Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin (nay là Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử văn hóa cần được bảo vệ và phát huy tác dụng tại Quyết định số 215/QĐ-SVHTT ngày 16/6/2000 và và được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh cấp bằng xếp hạng di tích cấp tỉnh tại Quyết định số 3022/QĐ-UBND ngày 14/09/2012.

Phú Đa Hậu

8

Làng Vũ Yên

Làng Vũ Yên là làng cổ, nay thuộc xã Minh Thọ, huyện Nông Cống. Tên làng có từ xa xưa, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Vũ Yên

9

Xã Minh Thọ

Xã Minh Thọ thuộc huyện Nông Cống. Tên địa danh hành chính xã Minh Thọ trước khi thực hiện Nghị Quyết số 935/NQ-UBTVQH13 ngày 15/5/2015 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về điều chỉnh địa giới hành chính mở rộng thị trấn huyện Nông Cống gồm toàn bộ dân số và diện tích của xã Minh Thọ.

Minh Thọ

3.16. Huyện Quan Hóa: 13 địa danh

STT

Tên địa danh

Tóm tắt lý lịch

Tên dùng

1

Bản Khằm

Bản Khằm, tên gọi xưa đã ăn sâu vào tiềm thức Nhân dân. Bản có di tích lịch sử đã được xếp hạng cấp tỉnh. Đây là nơi thờ Thượng tướng Thống lĩnh Quân Khằm Ban, người có công giữ nước, đánh đuổi giặc Minh, giữ yên bờ cõi, nay thuộc xã Hồi Xuân, huyện Quan Hóa.

Bản Khằm

2

Cầu Na Sài

Cầu Na Sài thuộc thị trấn Hồi Xuân, huyện Quan Hóa, cây cầu bắc qua sông Mã, nối xã Phú Nghiêm với thị trấn Hồi Xuân. Nằm trên Quốc lộ 15, cầu Na Sài có vị trí rất quan trọng trong sự phát triển của tỉnh, nhất là phát triển kinh tế - xã hội các huyện phía Tây Thanh Hóa, đồng thời góp phần làm thay đổi diện mạo vùng quê Quan Hóa. Địa danh quen thuộc đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân huyện Quan Hóa.

Na Sài

3

Đồn Poọng Nưa

Đồn Poọng Nưa thuộc huyện Quan Hóa, là đồn quân sự của thực dân Pháp, được xây dựng năm 1947 tại xã Hiền Kiệt. Địa danh quen thuộc đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân huyện Quan Hóa.

Poọng Nưa

4

Hang Phi

Hang Phi nằm ở thị trấn Hồi Xuân, huyện Quan Hóa, nằm trong quần thể di tích hang Lũng Mu. Hang Phi là địa danh nổi tiếng được nhiều người biết đến. Địa danh Hang Phi là địa danh quen thuộc đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân huyện Quan Hóa.

Hang Phi

5

Hồ Pha Đay

Hồ Pha Đay thuộc bản Bút, xã Nam Xuân, huyện Quan Hóa, là hồ tự nhiên có độ cao so với mặt nước biển khoảng 700 mét, xung quanh hồ là quần thể rừng già nguyên sinh với nhiều cây gỗ lớn, có thể tổ chức các hoạt động cắm trại, chèo thuyền, bè mảng, thả lưới, quăng chài, câu cá, chụp hình...Đây là địa danh nổi tiếng được nhiều người biết đến. Địa danh Hồ Pha Đay là địa danh quen thuộc đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân huyện Quan Hóa.

Pha Đay

6

Hồ Vinh Quang

Hồ Vinh Quang là hồ tự nhiên thuộc địa phận bản Vinh Quang, xã Phú Nghiêm, huyện Quan Hóa, có diện tích khoảng 5 ha. Địa danh Hồ Vinh Quang là địa danh quen thuộc đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân huyện Quan Hóa.

Hồ Vinh Quang[152]

7

Mường Khằng

Mường Khằng là tên gọi của một trong những vùng Mường cổ thuộc huyện Quan Hóa, vùng đất Mường Khằng nay là địa bàn xã Thiên Phủ. Địa danh này đã ăn sâu vào tiềm thức của đồng bào Mường Thanh Hóa.

Mường Khằng

8

Mường Khiết

Mường Khiết là tên gọi của một trong những vùng Mường cổ thuộc huyện Quan Hóa, vùng đất Mường Khiết nay thuộc địa bàn xã Hiền Chung, xã Hiền Kiệt huyện Quan Hóa. Địa danh này đã ăn sâu vào tiềm thức của đồng bào Mường Thanh Hóa.

Mường Khiết

9

Mường Le

Mường Le, tên gọi quen thuộc của một trong những vùng Mường Thanh Hóa, vùng đất Mường Le nay là địa bàn các xã Trung Thành, xã Thành Sơn, thuộc huyện Quan Hóa. Địa danh này đã ăn sâu vào tiềm thức của đồng bào Mường Thanh Hóa.

Mường Le

10

Mường Páng

Mường Páng, tên gọi quen thuộc của một trong những vùng Mường Thanh Hóa, vùng đất Mường Páng nay là địa bàn xã Trung Sơn, thuộc huyện Quan Hóa. Địa danh này đã ăn sâu vào tiềm thức của đồng bào Mường Thanh Hóa.

Mường Páng

11

Mường Tuồng

Mường Tuồng, tên gọi quen thuộc của một trong những vùng Mường Thanh Hóa, vùng đất Mường Tuồng nay là địa bàn các xã Nam Tiến, xã Nam Động thuộc huyện Quan Hóa. Địa danh này đã ăn sâu vào tiềm thức của đồng bào Mường Thanh Hóa.

Mường Tuồng

12

Mường Ánh

Mường Ánh là tên gọi của một trong những vùng Mường cổ, thuộc huyện Quan Hóa, vùng đất Mường Ánh nay là địa bàn các xã Phú Lệ, Phú Sơn, Phú Thanh, Phú Xuân. Địa danh này đã ăn sâu vào tiềm thức của đồng bào Mường Thanh Hóa.

Mường Ánh

13

Xã Nam Động

Xã Nam Động thuộc huyện Quan Hóa, là tên xã của huyện Quan Hóa nơi người Mường chiếm đa số với 1.639 người (chiếm 62,43% tổng dân cư toàn xã), sau đó là Thái với 765 người (chiếm 29,14% tổng dân cư toàn xã).

Nam Động

3.17. Huyện Quan Sơn: 08 địa danh

STT

Tên địa danh

Tóm tắt lý lịch

Tên dùng

1

Cầu Phà Lò

Cầu Phà Lò thuộc xã Trung Thượng, huyện Quan Sơn. Cầu Phà Lò là nơi bị giặc đánh phá ác liệt nhằm cắt đứt huyết mạch giao thông nối đôi bờ sông Lò, ngăn con đường giao thông của ta sang nước bạn Lào. Ngày 10/02/1966, lực lượng dân quân xã Trung Hạ, Tam Lư đã bắn cháy một máy bay F105 của Mỹ bằng súng bộ binh tại trận địa phòng không bảo vệ cầu Phà Lò trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Cầu Phà Lò được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh tại Quyết định số 2514/QĐ-UBND ngày 04/8/2011.

Phà Lò

2

Động Nang Non

Động Nang Non thuộc huyện Quan Sơn, là động nằm trong núi đá cao ở xã Sơn Lư nay là thị trấn Sơn Lư, huyện Quan Sơn. Với địa hình đồi núi tự nhiên kết hợp với sông Lò, bên trong có hang động rộng 10m, chiều sâu 70 m, cao trên 70 m, trong động có nhiều thạch nhũ đẹp. Tương truyền thế kỷ XV, khi Lê Lợi dẫn binh sang Lào để xuống Con Cuông (Nghệ An) đánh giặc Minh sau đó đánh ra Bắc, khi qua đây, ông đã từng dừng chân vào hang thăm thắng cảnh động Nang Non.

Nang Non

3

Mường Chu Sàn

Mường Chu Sàn là tên gốc Mường Xia, gắn liền với truyền thuyết Tạo Mường, là trung tâm của khu vực biên giới phía Tây tỉnh Thanh Hóa, lúc bấy giờ gồm có các Mường như: Mường Chanh, Mường Pùng, Mường Xim, Mường Chiềng Cồng, Mường Lát, Mường Ai, Mường Lý (7 Mường nay thuộc huyện Mường Lát); Mường Khiết, Mường Khằng, Mường Tuồng (3 Mường nay thuộc huyện Quan Hóa); Mường Xia, Mường Mìn, Mường Sại, Mường Mò, Mường Hạ, Mường Chự (6 Mường nay thuộc huyện Quan Sơn). Tổng có 16 Mường nhỏ thuộc Mường lớn Chu Sàn sau đổi tên thành Mường Xia. Ngoài ra còn có hai Mường kết nghĩa là Mường Bén và Mường Sôi của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.

Chu Sàn

4

Mường Hạ

Mường Hạ là tên đơn vị hành chính được thành lập năm Minh Mạng thứ 15 (1834). Là địa danh quen thuộc đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân. Mường Hạ ngày nay thuộc thị trấn Sơn Lư và xã Sơn Hà thuộc huyện Quan Sơn.

Mường Hạ

5

Núi Pha Dùa

Núi Pha Dùa là núi thuộc bản Chung Sơn, xã Sơn Thủy, thuộc huyện Quan Sơn, có phong cảnh núi non hùng vĩ thơ mộng gắn với câu chuyện tình bi ai của đôi trai tài gái sắc Mường Xia, Mường Mìn. Tương truyền rằng, xưa kia là nơi đôi trai gái yêu nhau tha thiết. Cô gái là nàng Lá Nọi - con gái một nhà lang đạo giàu có nổi tiếng khắp vùng Mường Mìn. Chàng trai là con nhà tạo Mường Xia, nhưng gia đình khốn khó, không tương xứng với ông tạo Mường Mìn. Mối tình của họ không được cha mẹ cô gái chấp nhận, họ quyết gả bán cô cho một nhà tạo giàu sang. Không chấp nhận hôn nhân không có tình yêu, bất chấp sự ngăn cấm của cha mẹ, anh em họ hàng, họ vẫn đến với nhau bằng tình yêu tha thiết, thề nguyền mãi mãi bên nhau, cùng chết bên nhau để biến vào núi Pha Dùa và lên đỉnh núi cao làm thần hai Mường. Từ đó, mỗi độ xuân về trai gái Mường Xia có tục du xuân vào hang Dùa cầu duyên, cùng nhau chơi cát bên chân núi, ném còn ngoài bãi sông và lắng nghe lời tình tự của đôi trai gái Mường Xia - Mường Mìn năm xưa.

Pha Dùa

6

Núi Pha Phanh

Núi Pha Phanh thuộc huyện Quan Sơn, là một dãy núi đá kéo dài từ bản Na Hồ, bản Xuân Sơn (xã Sơn Điện, huyện Quan Sơn) xuống xã Nam Động về xã Nam Tiến (huyện Quan Hóa) dài hơn 30 km, tạo thành bức tường đá bảo vệ quê hương, bảo vệ căn cứ kháng chiến của ta thời chống Pháp. Thời kỳ 1948 - 1953, Ủy ban hành chính kháng chiến xã Sơn Thủy từng đặt ở khu vực núi Pha Phanh để lãnh chỉ đạo cuộc kháng chiến của địa phương.

Pha Phanh

7

Núi Pù Mằn

Núi Pù Mằn là núi đất, có độ cao 1.247m so với mực nước biển, thuộc bản Ngàm, xã Trung Thượng, huyện Quan Sơn, là địa danh nổi tiếng của khu vực miền núi Thanh Hóa. Pù Mằn cùng với Pù Kùn của bản Xum (xã Sơn Hà) và ngọ Nóc Ngua, bản Nà Đang (xã Phú Lâm) tạo nên quần thể 3 đỉnh núi cao và thiêng của khu vực này. Ở đây có rất nhiều động vật quý hiếm sinh sống (như: khỉ, vượn, sóc, gấu, nai, hổ, báo, đười ươi,...) và có nhiều loại gỗ quý.

Pù Mằn

8

Sông Lò

Sông Lò thuộc huyện Quan Sơn, là tên con sông bắt nguồn từ Mường Pao, huyện Sầm Tớ, tỉnh Hủa Phăn, Lào chảy qua huyện Quan Sơn, dài trên 62 km đổ ra Sông Mã. Sông Lò gắn với nhiều dấu ấn lịch sử, di tích lịch sử cách mạng cầu Phà Lò bắc qua Sông Lò được xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh năm 2011.

Sông Lò

3.18. Huyện Quảng Xương: 17 địa danh

STT

Tên địa danh

Tóm tắt lý lịch

Tên dùng

Đã đặt

1

Cầu Thạch Châu

Cầu Thạch Châu vượt qua sông Yên nối giữa 02 xã Quảng Thạch, huyện Quảng Xương và xã Hải Châu, huyện Tĩnh Gia.

Thạch Châu[153]

Đã đặt tên công trình công cộng

2

Đồn Điền

Đồn Điền thuộc huyện Quảng Xương, tên gọi từ thời Hậu Lê của xã Quảng Thái. Địa danh này là tên gọi quen thuộc, ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Đồn Điền

 

3

Làng Bồi Nguyên

Làng Bồi Nguyên có từ năm 1954 thuộc xã Quảng Hải, huyện Quảng Xương. Địa danh này là tên gọi quen thuộc, ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Bồi Nguyên

 

4

Làng Cự Nham

Làng Cự Nham (Kẻ Mom) thuộc huyện Quảng Xương, tên xa xưa của xã Quảng Nham. Địa danh này là tên gọi quen thuộc, ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Cự Nham

 

5

Làng Hải Nhuận

Làng Hải Nhuận thuộc huyện Quảng Xương, tên cũ từ năm 1954, nay thuộc xã Quảng Hải. Địa danh này là tên gọi quen thuộc, ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Hải Nhuận

 

6

Làng Mậu Xương

Làng Mậu Xương có từ xa xưa, tên gọi đã ăn sâu vào tiềm thức Nhân dân, nay làng thuộc xã Quảng Lưu, huyện Quảng Xương; làng có ngôi đền Mậu Xương nổi tiếng được nhiều người biết đến, chùa Mậu Xương được xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh.

Mậu Xương

 

7

Làng Nhân Hậu

Làng Nhân Hậu là làng có từ xa xưa, xuất hiện từ đầu thế kỷ XIX, trước đây thuộc tổng Lưu Vệ (nay thuộc xã Quảng Trạch) huyện Quảng Xương. Địa danh này là tên gọi quen thuộc, ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Nhân Hậu

 

8

Làng Phú Đa

Làng Phú Đa thuộc xã Quảng Đức xuất hiện từ đầu thời Nguyễn thuộc tổng Thái Lai, huyện Quảng Xương. Hiện nay tên Phú Đa vẫn được dùng để gọi tên cho một vài làng trên địa bàn các xã, thị trấn thuộc huyện Quảng Xương. Địa danh này là tên gọi quen thuộc, ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Phú Đa

 

9

Làng Sênh

Làng Sênh thuộc huyện Quảng Xương, tên có từ xưa, nay thuộc xã Quảng Nhân, có câu ca: “Đất mạ làng Bùi, cùi dứa làng Sênh, cột đình làng Mậu”...để chỉ việc so sánh các đặc điểm, đặc trưng của các địa phương, đã ăn sâu vào tiềm thức dân gian.

Làng Sênh

 

10

Làng Thiên Linh

Làng Thiên Linh xưa thuộc xã Thiên Linh, nay thuộc xã Quảng Yên, huyện Quảng Xương, tên gọi Làng Riềng.

Thiên Linh

 

11

Thôn Khang Bắc

Thôn Khang Bắc có trước năm 1954, nay thuộc xã Quảng Hải, huyện Quảng Xương.

Khang Bắc

 

12

Thôn Lưu Hiền

Thôn Lưu Hiền có từ đầu thế kỷ XIX, là tên gọi một thôn thuộc xã Thủ Hộ, tổng Thủ Hộ, huyện Quảng Xương. Nay là làng Lưu Hiền thuộc xã Quảng Lưu, huyện Quảng Xương. Địa danh này là tên gọi quen thuộc, ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Lưu Hiền

 

13

Thôn Mỹ Trạch

Thôn Mỹ Trạch có từ đầu thế kỷ XIX, thuộc tổng Lưu Vệ, phủ Tĩnh Gia, nay thuộc xã Quảng Trạch, huyện Quảng Xương. Địa danh này là tên gọi quen thuộc, ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Mỹ Trạch

 

14

Thôn Tiền Thịnh

Thôn Tiền Thịnh có từ đầu thế kỷ XIX, thuộc xã Quang Tiền, tổng Thái Lai, phủ Tĩnh Gia nay thuộc xã Quảng Đức, huyện Quảng Xương. Địa danh này là tên gọi quen thuộc, ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Tiền Thịnh

 

15

Thôn Triều Công

Thôn Triều Công có từ đầu thế kỷ XIX, thuộc xã Thủ Hộ, tổng Thủ Hộ, huyện Quảng Xương. Địa danh này là tên gọi quen thuộc, ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Triều Công

 

16

Xã Ngọc Giáp

Xã Ngọc Giáp có từ đầu thế kỷ XIX, thuộc tổng Thủ Hộ, huyện Quảng Xương, phủ Tĩnh Gia, nay thuộc xã Quảng Chính. Địa danh này là tên gọi quen thuộc, ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Ngọc Giáp

 

17

Xã Ngọc Trà

Xã Ngọc Trà có từ thời Gia Long, nay thuộc xã Quảng Trung, huyện Quảng Xương. Địa danh này là tên gọi quen thuộc, ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Ngọc Trà

 

3.19. Huyện Thạch Thành: 07 địa danh

STT

Tên địa danh

Tóm tắt lý lịch

Tên dùng

1

Bãi Chào Cờ

Bãi Chào Cờ - bãi đất rộng ven sông Bưởi giáp ranh giữa hai làng Trường Cát và Phú Sơn (nay thuộc khu phố 6, thị trấn Kim Tân) thuộc huyện Thạch Thành. Nơi đây Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện Thạch Thành đã tổ chức cuộc mít tinh lớn để ra mắt Nhân dân trong huyện và biểu dương khí thế cách mạng khi Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện Thạch Thành được thành lập sau cuộc biểu tình giành chính quyền ở huyện lỵ Kim Tân ngày 19/8/1945.

Chào Cờ

2

Làng Đồng Nga

Làng Đồng Nga là tên gọi một làng cổ thuộc xã Thành Kim trước đây, được tách ra để thành lập thị trấn Kim Tân (1990), nay địa phận thuộc một phần của khu phố 3, thị trấn Kim Tân, huyện Thạch Thành. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Đồng Nga

3

Làng Đồng Ngư

Làng Đồng Ngư là tên một làng cổ thuộc xã Thành An, huyện Thạch Thành. Đồng thời, là tên một công trình thủy lợi Hồ chứa nước phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống Nhân dân 06 xã khu vực Tây Bắc, huyện Thạch Thành. Đây là công trình lớn đầu tiên của huyện trong thời kỳ đầu xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (kế hoạch 05 năm lần thứ nhất (1960 - 1965). Đây là địa danh quen thuộc, Nhân dân quen dùng.

Đồng Ngư

4

Làng Mường Đẹ

Làng Mường Đẹ thuộc làng Quảng Giang, nay là xã Thạch Quảng, huyện Thạch Thành. Xưa kia gọi là Làng Đẹ, Mường Đẹ, là nơi gắn liền với dòng họ Nguyễn Đình liên quan đến họ Nguyễn Gia Miêu. Lịch sử ghi nhận nơi đây đã di dời làng phục vụ xây dựng sân bay dã chiến Thạch Quảng năm 1972 và xây dựng Nông trường 26/3. Mường Đẹ cũng là nơi anh hùng phi công Vũ Xuân Thiều xuất kích, điều khiển chiếc máy bay MiG-21 tiêu diệt B-52 của Mỹ trong trận “Điện Biên Phủ trên không” đêm 28/12/1972.

Mường Đẹ

5

Làng Ngọc Đồng

Làng Ngọc Đồng thuộc huyện Thạch Thành, trước năm 1945 thuộc tổng Trường Cát, nay là làng Hoàng Thành, xã Thành Hưng. Trong phong trào chống Pháp cuối thế kỷ XIX là một căn cứ của nghĩa quân Cần Vương. Khi khởi nghĩa Ba Đình thất bại, giặc Pháp tấn công lên khu vực này và đàn áp hết sức dã man dân làng, xác người ngổn ngang thành bãi chôn chung cả làng, giặc Pháp đã buộc Triều Nguyễn xóa tên làng, làng bị triệt hạ. Khoảng năm 1924 khi Hà Văn Ngoạn (người Vĩnh Lộc) làm Tri huyện Thạch Thành cho khôi phục làng và lấy tên là làng Nhân Phúc, đến năm 1963, dân Hoằng Hóa lên định cư, làng đổi tên thành làng Hoàng Thành.

Ngọc Đồng

6

Làng Phú Lộc

Làng Phú Lộc thuộc huyện Thạch Thành, trước năm 1945, thuộc tổng Trường Cát, nay thuộc xã Thành Hưng. Làng Phú Lộc có Nghè và Mộ thờ các vị tướng thời Trần là Lê Phúc Hồng và Lê Phúc Quý, có công đánh giặc Chiêm Thành; là quê hương của Nguyễn Trí Đạo (Quận Đạo) - Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời, Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện Thạch Thành giai đoạn 1945-1949. Nhân dân làng Phú Lộc từng nuôi giấu nhiều chiến sỹ cách mạng thời tiền khởi nghĩa, trong đó có đồng chí Trần Tiến Quân là lãnh đạo Chiến khu Ngọc Trạo năm 1941.

Phú Lộc

7

Sách Khôi

Sách Khôi thuộc huyện Thạch Thành, tên một đơn vị hành chính thời Lê Sơ, nay thuộc một phần đất huyện Thạch Thành. Năm 1422, khi nghĩa quân Lam Sơn bị vây hãm ở Quan Du, Lê Lợi đã rút về Sách Khôi chiến đấu chém chết tướng giặc Phùng Quý, buộc Mã Kỳ, Trấn Trí phải tháo chạy về Đông Quan. Nghĩa quân đã bảo toàn được lực lượng.

Sách Khôi

3.20. Thành phố Sầm Sơn: 15 địa danh

STT

Tên địa danh

Tóm tắt lý lịch

Tên dùng

Ghi chú

1

Cầu Bến

Cầu Bến thuộc xã Quảng Hùng, thành phố Sầm Sơn, có từ thời Nguyễn, là cầu bắc qua sông Rào. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Cầu Bến

 

2

Cầu Bùi

Cầu Bùi thuộc xã Quảng Đại, thành phố Sầm Sơn, có từ thời Nguyễn, là cầu bắc qua sông Rào. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Cầu Bùi

 

3

Cầu Cửa Hới

Cầu Cửa Hới là cầu vượt qua sông Mã nối giữa huyện Hoằng Hóa và thành phố Sầm Sơn. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Cửa Hới[154]

Đã đặt tên công trình công cộng

4

Cống Sông Đơ

Cống Sông Đơ thuộc thị xã Sầm Sơn, tên 1 cửa sông đổ ra biển, có âu thuyền tránh bão ở chân núi Trường Lệ, giáp ranh phường Trường Sơn và phường Quảng Vinh, thành phố Sầm Sơn. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Sông Đơ

 

5

Làng Cá Lập

Làng Cá Lập (làng Trấp) nay thuộc các phường Quảng Cư, Quảng Tiến, thành phố Sầm Sơn, được hình thành trước thời Trần (thế kỷ XIII). Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Cá Lập

 

6

Làng Du Vịnh

Làng Du Vịnh (sở Đồn Điền) thuộc phường Quảng Vinh, thành phố Sầm Sơn, thành lập năm 1471-1472, thời vua Lê Thánh Tông. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Du Vịnh

 

7

Làng Hới

Làng Hới thuộc phường Quảng Tiến, thành phố Sầm Sơn, nơi có đền thờ làng Hới được Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin (nay là Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử văn hóa cần được bảo vệ và phát huy tác dụng tại Quyết định số 249/VHQĐ ngày 17/10/1993. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Làng Hới

 

8

Làng Lộc Trung

Làng Lộc Trung (tên nôm là làng Giữa) nay là phường Quảng Tiến, thành phố Sầm Sơn, tên gọi có từ thời Gia Long. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Lộc Trung

 

9

Làng Mỹ Lâm

Làng Mỹ Lâm thuộc xã Quảng Đại, thành phố Sầm Sơn. Năm 1681, đời vua Lê Hy Tông, ông tổ dòng họ Phạm Văn làm quan trong triều, giữ chức Tri Phủ Hoài Nhân khi về hưu ông đưa vợ con sinh cơ lập nghiệp, và sau này cháu đời thứ tư của ông đội đơn triều đình xin phép được lập làng Mỹ Lâm ngày nay. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Mỹ Lâm

 

10

Làng Nho Quan

Làng Nho Quan thuộc phường Quảng Vinh, thành phố Sầm Sơn. Khoảng thế kỷ XV, XVI, làng có tên là làng Văn, đến thế kỷ XVIII, làng được đổi tên thành Nho Quan. Làng Nho Quan gồm 4 xã: Đông, Mới, Trại, Tây. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Nho Quan

 

11

Làng Thủ Phú

Làng Thủ Phú (tổng Thủ Hộ) thuộc xã Quảng Đại, thành phố Sầm Sơn, có từ đầu thời Nguyễn. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Thủ Phú

 

12

Làng Triều Dương

Làng Triều Dương (tên nôm là làng Trào) thuộc xã Triều Thanh Lộc, tổng Giặc Thượng, rồi Kính Thượng, Cung Thượng, nay là phường Trung Sơn, thành phố Sầm Sơn. Làng Triều Dương thờ tổ sư nghề dệt là Bà Triều. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Triều Dương

 

13

Làng Trường Tân

Làng Trường Tân thuộc xã Lương Xá, tổng Phủ Hộ, rồi tổng Phủ Chính, nay là xã Quảng Hùng, thành phố Sầm Sơn. Đây là một trong những làng cổ được hình thành rất sớm ở vùng đất ven biển tỉnh Thanh Hóa; đời vua Minh Mạng lấy tên là làng Trường Tân. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Trường Tân

 

14

Làng Xuân Phương

Làng Xuân Phương (tên nôm là làng Lan) nay thuộc phường Quảng Châu, thành phố Sầm Sơn, làng do di dân Chiêm Thành thời nhà Trần lập nên. Sang đầu thế kỷ XIX đến đời vua Đồng Khánh là thôn Xuân Phương thuộc xã Giặc Hạ, tổng Giặc Thượng, sau đổi thành Kính Thượng, rồi Cung Thượng. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Xuân Phương

 

15

Tân Đức

Tân Đức là tên con đường thuộc khu phố Phúc Đức, ghép 02 xóm là xóm Tân và xóm Đức của xã Quảng Tiến trước đây, nay là phường Quảng Tiến, thành phố Sầm Sơn. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Tân Đức

 

3.21. Thành phố Thanh Hóa: 58 địa danh

STT

Tên địa danh

Tóm tắt lý lịch

Tên dùng

Ghi chú

1

Bãi Gành

Bãi Gành thuộc xã Hoằng Lý, thành phố Thanh Hóa. Đây là địa danh cổ, là tên một địa điểm khảo cổ thời kỳ văn hóa Đông Sơn, đã tìm thấy nhiều di vật bằng đồng: rìu, giáo, vòng trang sức và các loại vũ khí như: rìu chiến, dao găm. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Bãi Gành

 

2

Bôn Giàng[155]

Bôn Giàng thuộc thành phố Thanh Hóa, được nối thông từ bến đò Giàng phường Thiệu Khánh qua Thiệu Vân, Thiệu Giao và làng Bôn xã Đông Thanh huyện Đông Sơn, nối với quốc lộ 45. Đây là địa danh của tuyến đường Nhân dân thường quen gọi từ xa xưa, là tuyến đường chiến lược trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

Bôn Giàng

 

3

Cát Đằng[156]

Cát Đằng thuộc thành phố Thanh Hóa, tên Cát Đằng được Nhân dân lấy tên của một xóm có từ năm 1954 thuộc xã Quảng Cát, huyện Quảng Xương. Năm 2012, xã Quảng Cát sáp nhập về thành phố Thanh Hóa. Đây là địa điểm (tuyến đường) Nhân dân đã quen gọi từ xa xưa ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Cát Đằng

 

4

Cát Hòa[157]

Cát Hòa thuộc thành phố Thanh Hóa, tên Cát Hòa được Nhân dân lấy tên của một xóm có từ năm 1954 thuộc xã Quảng Cát, huyện Quảng Xương. Năm 2012, xã Quảng Cát sáp nhập về thành phố Thanh Hóa. Đây là địa điểm (tuyến đường) Nhân dân đã quen gọi từ xa xưa ăn sâu vào tiềm thức Nhân dân, hiện Nhân dân vẫn quen dùng.

Cát Hòa

 

5

Cát Khang

Cát Khang là địa điểm (tuyến đường) thuộc thành phố Thanh Hóa, tên Cát Khang được Nhân dân lấy tên của một xóm có từ năm 1954 thuộc xã Quảng Cát, huyện Quảng Xương. Năm 2012, xã Quảng Cát sáp nhập về thành phố Thanh Hóa. Cát Khang đã ăn sâu vào tiềm thức Nhân dân.

Cát Khang

 

6

Cát Phú

Cát Phú là địa điểm (tuyến đường) thuộc thành phố Thanh Hóa, tên Cát Phú được Nhân dân lấy tên của một xóm có từ năm 1954 thuộc xã Quảng Cát, huyện Quảng Xương. Năm 2012 xã Quảng Cát sáp nhập về thành phố Thanh Hóa, nhân dân dùng tên Cát Phú để gọi cho tuyến đường qua xã Quảng Cát.

Cát Phú

 

7

Cát Thành

Cát Thành thuộc thành phố Thanh Hóa, tên địa điểm (tuyến đường), tên Cát Thành được Nhân dân lấy tên của một xóm có từ năm 1954 thuộc xã Quảng Cát, huyện Quảng Xương. Năm 2012, xã Quảng Cát sáp nhập về thành phố Thanh Hóa. Đây là địa điểm được Nhân dân đã quen gọi từ xa xưa.

Cát Thành

 

8

Cát Tiến

Cát Tiến thuộc thành phố Thanh Hóa, tên Cát Tiến được Nhân dân lấy tên của một xóm có từ năm 1954 thuộc xã Quảng Cát, huyện Quảng Xương. Năm 2012, xã Quảng Cát sáp nhập về thành phố Thanh Hóa. Nhân dân thường dùng tên Cát Tiến gọi cho tuyến đường đi qua khu vực này.

Cát Tiến

 

9

Cát Yên

Cát Yên thuộc thành phố Thanh Hóa, tên Cát Yên được Nhân dân lấy từ tên của một xóm có từ năm 1954 thuộc xã Quảng Cát, huyện Quảng Xương. Năm 2012, xã Quảng Cát sáp nhập về thành phố Thanh Hóa. Nhân dân thường dùng tên gọi Cát Yên cho tuyến đường đi qua khu vực này.

Cát Yên

 

10

Chiến Lược

Chiến Lược thuộc thành phố Thanh Hóa, được nối từ đường quốc lộ 1A cũ (nay là đường Văn Tiến Dũng đến bến Phà 2 thuộc xã Hoằng Lý (nay là phường Tào Xuyên) thành phố Thanh Hóa, là con đường vận tải trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Địa điểm (tuyến đường) Nhân dân đã quen gọi từ xa xưa, ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Chiến Lược

 

11

Đồng Bài[158]

Đồng Bài thuộc thành phố Thanh Hóa, là tên địa điểm (tuyến đường) Nhân dân đã quen gọi từ xa xưa, ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Đồng Bài

 

12

Đồng Bái[159]

Đồng Bái, tên một địa điểm (tuyến đường) được lấy tên từ một xứ đồng đã trồng trọt rau màu và đã nuôi dưỡng các thế hệ con cháu ăn học thành tài, sau này cánh đồng này đã được Nhân dân đầu tư xây dựng thành một khu dân cư, nay thuộc phường Quảng Hưng, thành phố Thanh Hóa.

Đồng Bái[160]

Đã đặt tên đường

13

Đồng Mai[161]

Đồng Mai thuộc thành phố Thanh Hóa, tên Đồng Mai được Nhân dân lấy từ tên của xứ Đồng Mai có từ trước năm 1945, thuộc tổng Cung Thượng, huyện Quảng Xương, phủ Tĩnh Gia. Từ năm 1954 đến 2012 thuộc xã Quảng Tâm, huyện Quảng Xương. Năm 2012, xã Quảng Tâm sáp nhập về thành phố Thanh Hóa. Đây là tên gọi đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân, hiện Nhân dân đã quen gọi từ xa xưa và nay vẫn thường dùng.

Đồng Mai

 

14

Hợp tác xã Đại Phú

Hợp tác xã Đại Phú thuộc thành phố Thanh Hóa, là tên của một hợp tác xã nông nghiệp thuộc phường Thiệu Khánh, đây là hợp tác xã nông nghiệp tiêu biểu trong những năm 1977,1978 có những mô hình sản xuất tốt, năng suất sản lượng đạt khá, đã được tỉnh, huyện khen thưởng, biểu dương về sản xuất và chăn nuôi.

Đại Phú

 

15

Hợp tác xã Hồng Phong

Hợp tác xã Hồng Phong thuộc thành phố Thanh Hóa, tên của hợp tác xã đầu tiên được thành lập năm 1954 của xã Quảng Tâm, nay là phường Quảng Tâm.

Hồng Phong

 

16

Hợp tác xã Kiều Thắng

Hợp tác xã Kiều Thắng được thành lập từ năm 1960. Đây là một trong những hợp tác xã nông nghiệp đầu tiên của xã Hoằng Đại, tiêu biểu có những mô hình sản xuất tốt, năng suất sản lượng đạt khá, đã được tỉnh, huyện khen thưởng, biểu dương về sản xuất và chăn nuôi.

Kiều Thắng

 

17

Hợp tác xã Kiều Tiến

Hợp tác xã Kiều Tiến được thành lập từ năm 1960. Đây là hợp tác xã nông nghiệp đầu tiên của xã Hoằng Đại, tiêu biểu có những mô hình sản xuất tốt, năng suất sản lượng đạt khá, đã được tỉnh, huyện khen thưởng, biểu dương về sản xuất và chăn nuôi.

Kiều Tiến

 

18

Làng Cổ Ninh

Làng Cổ Ninh có từ năm 1945, thuộc xã Liên Hoa, huyện Đông Sơn, nay là thành phố Thanh Hóa. Năm 1947 - 1953 thuộc xã Đại Bái, từ năm 1953 đến nay làng Cổ Ninh thuộc xã Thiệu Vân, huyện Thiệu Hóa. Năm 2012, xã Thiệu Vân sáp nhập về thành phố Thanh Hóa. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Cổ Ninh

 

19

Làng Đại Độ

Làng Đại Độ có từ năm 1953, thuộc thành phố Thanh Hóa. Tháng 11 năm 1953, xã Đông Hưng được chia tách thành 2 xã Đông Hưng và Đông Tân, xã Đông Tân có 6 làng gồm làng Đống, làng Yên Hoạch, làng Viện Giang, làng Lộc Giang, làng Phù Lưu và làng Đại Độ. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Đại Độ

 

20

Làng Đại Khánh

Làng Đại Khánh thuộc thành phố Thanh Hóa, tên nôm là làng Vồm, đầu thế kỷ XIX tên là xã Đại Khánh thuộc tổng Đại Bối, huyện Đông Sơn. Đây là một địa danh cổ có từ xưa. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Đại Khánh

 

21

Làng Đại Tiền

Làng Đại Tiền thuộc thành phố Thanh Hóa, có từ đầu thế kỷ XIX. Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, làng Đại Tiền thuộc phủ Hà Trung, năm 1945 được sáp nhập về tổng Bái Trạch, năm 1946, thuộc xã Đại Bái, huyện Hoằng Hóa. Năm 1947, xã Đại Bái sáp nhập với xã Hoằng Lộc gọi là xã Hoằng Lộc, làng Đại Tiền thuộc xã Hoằng Lộc. Năm 1953, xã Hoằng Đại được thành lập, làng Đại Tiền thuộc xã Hoằng Đại, huyện Hoằng Hóa. Năm 2012, xã Hoằng Đại sáp nhập về thành phố Thanh Hóa. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Đại Tiền

 

22

Làng Doanh Xá

Làng Doanh Xá nay thuộc phường Thiệu Khánh, thành phố Thanh Hóa, tên nôm là làng Chành, đầu thế kỷ XIX tên là xã Doanh Xá, tổng Đại Bối, huyện Đông Sơn, là địa danh cổ. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Doanh Xá

 

23

Làng Duy Tiếu

Làng Duy Tiếu từ khi mới hình thành là một làng lớn gồm làng Hưng Đồng, làng Duy Hưng và nay là phố 6, phố 7 phường Quảng Hưng, thành phố Thanh Hóa. Đường Duy Tiếu chạy qua địa bàn của hai phố.

Duy Tiếu[162]

Đã đặt tên đường

24

Làng Đồng Me

Làng Đồng Me có từ cuối thế kỷ XIX, thuộc thành phố Thanh Hóa, trước năm 1960 làng Đồng Me thuộc xã Thiệu Tân, năm 1960 làng Đồng Me sáp nhập về xã Thiệu Vân, huyện Thiệu Hóa. Năm 2012, xã Thiệu Vân sáp nhập về thành phố Thanh Hóa. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Đồng Me

 

25

Làng Đức Hậu

Làng Đức Hậu có từ khi mới hình thành và được Nhân dân thường dùng, nay thuộc phường Quảng Hưng, thành phố Thanh Hóa. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Đức Hậu[163]

Đã đặt tên đường

26

Làng Nhân Phong

Làng Nhân Phong nay thuộc phường Quảng Hưng, thành phố Thanh Hóa. Làng Nhân Phong đã có từ khi mới hình thành và được Nhân dân thường dùng. Hiện tên Nhân Phong được đặt cho tuyến đường thuộc phường Quảng Hưng.

Nhân Phong[164]

Đã đặt tên đường

27

Làng Hà Phương

Làng Hà Phương có từ đầu thế kỷ XIX, thuộc thành phố Thanh Hóa, trước Cách mạng tháng Tám 1945 làng Hà Phương thuộc phủ Hà Trung, năm 1945 được sáp nhập về tổng Bái Trạch, năm 1946 thuộc xã Đại Bái, huyện Hoằng Hóa. Năm 1947, xã Đại Bái sáp nhập với xã Hoằng Lộc gọi là xã Hoằng Lộc, làng Hà Phương thuộc xã Hoằng Lộc. Năm 1953, xã Hoằng Đại được thành lập, làng Hà Phương thuộc xã Hoằng Đại, huyện Hoằng Hóa. Năm 2012, xã Hoằng Đại sáp nhập về thành phố Thanh Hóa. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Hà Phương

 

28

Làng Hiểu Lâm

Làng Hiểu Lâm nay thuộc xã Thiệu Vân, thành phố Thanh Hóa, tên làng cổ có từ thời Lê. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Hiểu Lâm

 

29

Làng Hưng Giang

Làng Hưng Giang thuộc thành phố Thanh Hóa, tên của một làng có từ năm 1954, thuộc xã Quảng Hưng, huyện Quảng Xương. Năm 1995, xã Quảng Hưng được sáp nhập về thành phố Thanh Hóa. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Hưng Giang

 

30

Làng Hưng Thuận

Làng Hưng Thuận có từ khi mới hình thành, sau này làng đã đổi thành nhiều tên khác nhau, nay thuộc phường Quảng Hưng, thành phố Thanh Hóa. Hiện tên Hưng Thuận đã dùng đặt tên cho tuyến đường thuộc phường Quảng Hưng, thành phố Thanh Hóa.

Hưng Thuận[165]

Đã đặt tên đường

31

Làng Hưng Xá

Làng Hưng Xá được lấy tên của hai làng trước đây, sau này sáp nhập thành một phố đó là làng Văn Xá và làng Hưng Thọ. Hiện tên Hưng Xá được đặt cho tuyến đường chạy qua làng Hưng Xá và làng Hưng Thọ nhưng chung một phố, được gọi là phố 4, phường Quảng Hưng, thành phố Thanh Hóa.

Hưng Xá[166]

Đã đặt tên đường

32

Làng Lam Hà

Làng Lam Hà thuộc thành phố Thanh Hóa, làng có từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, làng Lam Hà thuộc xã Đại Bái, huyện Hoằng Hóa. Năm 1947, xã Đại Bái sáp nhập với xã Hoằng Lộc gọi là xã Hoằng Lộc, làng Lam Hà thuộc xã Hoằng Lộc. Năm 1953, xã Hoằng Đại được thành lập, làng Lam Hà thuộc xã Hoằng Đại, huyện Hoằng Hóa. Năm 2012, xã Hoằng Đại sáp nhập về thành phố Thanh Hóa. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Lam Hà

 

33

Làng Mân Trung

Làng Mân Trung thuộc thành phố Thanh Hóa, làng có từ thời nhà Nguyễn, thuộc tổng Thọ Hạc, huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Hóa. Năm 1948-1977, làng Mân Trung thuộc xã Đông Lĩnh, huyện Đông Sơn, từ 1977-1982 thuộc xã Đông Lĩnh, huyện Đông Thiệu, từ 1988 đến 2012, thuộc xã Đông Lĩnh, huyện Đông Sơn. Năm 2012, xã Đông Lĩnh sáp nhập về thành phố Thanh Hóa. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Mân Trung

 

34

Làng Nhân Thọ

Làng Nhân Thọ thuộc thành phố Thanh Hóa, làng có từ thế kỷ XIX, trước năm 1945 làng Nhân Thọ thuộc tổng Lưu Thanh, phủ Quảng Xương. Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, thuộc xã Trần Hưng Đạo, huyện Quảng Xương. Năm 1948 xã Trần Hưng Đạo sáp nhập với xã Tống Duy Tân thành xã Quảng Hưng (nay thuộc thành phố Thanh Hóa). Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Nhân Thọ

 

35

Làng Phú Ân

Làng Phú Ân thuộc thành phố Thanh Hóa, tên nôm là làng Đọ. Đây là một địa danh cổ có từ xưa nằm ở phía Tây phường Thiệu Khánh ngày nay. Làng có từ thời nhà Nguyễn, trước năm 1900, làng Phú Ân thuộc tổng Đại Bối, huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Thiên. Năm 1900, đời Vua Thành Thái thứ 12, làng Phú Ân thuộc huyện Thụy Nguyên. Sau năm 1945, làng thuộc xã Đại Tân huyện Thiệu Hóa, năm 1953 làng thuộc phường Thiệu Khánh, huyện Thiệu Hóa. Năm 2012, phường Thiệu Khánh sáp nhập về thành phố Thanh Hóa. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Phú Ân

 

36

Làng Phú Cốc

Làng Phú Cốc có từ cuối thế kỷ XIX sau này tách thành làng Cốc Hạ và Cốc Thượng, thuộc tổng Bố Đức, huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Hóa, năm 1948 thuộc xã Đông Hương, huyện Đông Sơn. Năm 1971, xã Đông Hương được sáp nhập về thị xã Thanh Hóa. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Phú Cốc

 

37

Làng Tam Thọ

Làng Tam Thọ thuộc xã Đông Vinh, thành phố Thanh Hóa. Năm 1937 các nhà khảo cổ đã phát hiện khu lò gốm cổ và tiến hành khai quật, sau đó tên làng đã được lấy đặt tên cho di chỉ gốm - gọi là di chỉ gốm Tam Thọ. Năm 2004 được xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa và khảo cổ cấp tỉnh. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Tam Thọ

 

38

Làng Thạch Đường

Làng Thạch Đường nay thuộc xã Đông Vinh, thành phố Thanh Hóa, tên một làng cổ có từ thời Lê. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Thạch Đường

 

39

Làng Thanh Dương

Làng Thanh Dương thuộc thành phố Thanh Hóa, làng nằm ở phía đông phường Thiệu Khánh ngày nay. Làng có từ thế kỷ XIX, từ năm 1945 trở về trước, làng Thanh Dương thuộc tổng Đại Bối, phủ Thiệu Hóa, năm 1947 đến 1953, làng Thanh Dương thuộc xã Tân Dương, từ năm 1953, đến nay, làng Thanh Dương thuộc phường Thiệu Khánh, huyện Thiệu Hóa. Năm 2012, phường Thiệu Khánh sáp nhập về thành phố Thanh Hóa. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Thanh Dương

 

40

Làng Thủ Phác

Làng Thủ Phác nay thuộc phường Quảng Hưng, thành phố Thanh Hóa. Làng Thủ Phác đã có từ khi mới hình thành và được Nhân dân thường dùng. Đặt tên đường Thủ Phác là để các thế hệ sau này luôn nhớ về cội nguồn.

Thủ Phác[167]

Đã đặt tên đường

41

Làng Vân Nhưng

Làng Vân Nhưng thuộc thành phố Thanh Hóa, làng có từ thời nhà Nguyễn, thuộc tổng Thọ Hạc, huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Hóa. Năm 1948-1977, làng Vân Nhưng thuộc xã Đông Lĩnh, huyện Đông Sơn, từ 1977-1982 thuộc xã Đông Lĩnh, huyện Đông Thiệu, từ 1988 đến 2012 thuộc xã Đông Lĩnh, huyện Đông Sơn. Năm 2012, xã Đông Lĩnh sáp nhập về thành phố Thanh Hóa. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Vân Nhưng

 

42

Làng Việt Yên

Làng Việt Yên thuộc thành phố Thanh Hóa, làng có từ thời nhà Trần (1226 - 1400), lúc mới thành lập làng Việt Yên có tên là Kẻ Vọt (Cồn Vọt). Thời Hậu Lê gọi là làng Việt Yên, đầu thế kỷ XIX là thôn Việt Yên. Trước năm 1945, làng Việt Yên thuộc tổng Lưu Thanh, phủ Quảng Xương. Sau năm 1945, làng Việt Yên thuộc xã Phan Đình Phùng, huyện Quảng Xương. Năm 2012, xã Quảng Đông được sáp nhập về thành phố Thanh Hóa. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Việt Yên

 

43

Lý Cát[168]

Lý Cát thuộc thành phố Thanh Hóa, là địa điểm (tuyến đường) Nhân dân đã quen gọi từ xa xưa thuộc phường Đông Lĩnh, thành phố Thanh Hóa. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Lý Cát

 

44

Thôn Lam Cầu

Thôn Lam cầu có từ đầu thế kỷ XIX, thuộc tổng Bái Trạch. Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, thôn Lam cầu được đổi tên thành làng Hoằng Hóa nay thuộc thành phố Thanh Hóa. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Lam Cầu

 

45

Thôn Lộc Giang

Thôn Lộc Giang thuộc thành phố Thanh Hóa, thôn có từ cuối thế kỷ XIX, dưới thời Pháp thuộc, thôn Lộc Giang thuộc tổng Quảng Chiếu, phủ Đông Sơn. Tháng 11/1947 xã Đông Hưng được thành lập, thời điểm này thôn Lộc Giang thuộc xã Đông Hưng. Tháng 11 năm 1953 xã Đông Tân được thành lập trên cơ sở tách ra từ xã Đông Hưng, thôn Lộc Giang được gọi là làng Lộc Giang, xã Đông Tân, huyện Đông Sơn. Năm 2012 xã Đông Tân sáp nhập về thành phố Thanh Hóa. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Lộc Giang

 

46

Thôn Viện Giang

Thôn Viện Giang thuộc thành phố Thanh Hóa, thôn có từ cuối thế kỷ XIX, dưới thời Pháp thuộc, thôn Viện Giang thuộc tổng Quảng Chiếu, phủ Đông Sơn. Tháng 11/1947, xã Đông Hưng được thành lập, thời điểm này thôn Viện Giang thuộc xã Đông Hưng. Tháng 11 năm 1953, xã Đông Tân được thành lập trên cơ sở tách ra từ xã Đông Hưng, thôn Viện Giang được gọi là làng Viện Giang, xã Đông Tân, huyện Đông Sơn. Năm 2012, xã Đông Tân sáp nhập về thành phố Thanh Hóa. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Viện Giang

 

47

Xã Tân Hiệp

Xã Tân Hiệp thuộc thành phố Thanh Hóa, là tên một xã thuộc thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam, là xã kết nghĩa với phường Quảng Thịnh, thành phố Thanh Hóa.

Tân Hiệp

 

48

Xóm Đông Thành

Xóm Đông Thành là tên của một xóm có từ năm 1953 thuộc xã Quảng Đông, huyện Quảng Xương. Năm 2012, xã Quảng Đông sáp nhập về thành phố Thanh Hóa. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Đông Thành

 

49

Xóm Hạnh Phúc

Xóm Hạnh Phúc thuộc thành phố Thanh Hóa, trước năm 1946 xóm Hạnh Phúc gọi là làng Đống thuộc xã Hưng Yên, phủ Đông Sơn. Sau năm 1954, làng Đống gọi là xóm Hạnh Phúc thuộc xã Đông Tân, huyện Đông Sơn. Từ năm 1992 đến nay, xóm Hạnh Phúc đổi thành thôn Tân Hạnh. Năm 2012, xã Đông Tân sáp nhập về thành phố Thanh Hóa. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Hạnh Phúc

 

50

Xóm Hưng Đồng

Xóm Hưng Đồng thuộc thành phố Thanh Hóa, tên của một xóm có từ năm 1954, thuộc xã Quảng Hưng, huyện Quảng Xương. Năm 1995, xã Quảng Hưng được sáp nhập về thành phố Thanh Hóa. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Hưng Đồng

 

51

Xóm Hưng Phúc

Xóm Hưng Phúc có từ năm 1954, thuộc xã Quảng Hưng, huyện Quảng Xương. Năm 1995, xã Quảng Hưng được sáp nhập về thành phố Thanh Hóa. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Hưng Phúc

 

52

Xóm Hưng Thịnh

Xóm Hưng Thịnh có từ năm 1954, thuộc xã Quảng Hưng, huyện Quảng Xương. Năm 1995, xã Quảng Hưng được sáp nhập về thành phố Thanh Hóa. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Hưng Thịnh

 

53

Xóm Hưng Thọ

Xóm Hưng Thọ có từ năm 1954, thuộc xã Quảng Hưng, huyện Quảng Xương. Năm 1995, xã Quảng Hưng được sáp nhập về thành phố Thanh Hóa. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Hưng Thọ

 

54

Xóm Hưng Tiến

Xóm Hưng Tiến có từ năm 1954, thuộc xã Quảng Hưng, huyện Quảng Xương. Năm 1995, xã Quảng Hưng được sáp nhập về thành phố Thanh Hóa, nay thuộc thành phố Thanh Hóa. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Hưng Tiến

 

55

Xóm Thắng Sơn

Xóm Thắng Sơn thuộc thành phố Thanh Hóa, xóm có từ tháng 6/1959, theo chủ trương của Đảng để thuận tiện cho việc xây dựng các hợp tác xã nông nghiệp cấp thấp quy mô xóm, xã Đông Hưng cũ của thành phố Thanh Hóa tổ chức thành 9 xóm, trong đó có xóm Thắng Sơn. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Thắng Sơn

 

56

Xóm Thịnh Vạn

Xóm Thịnh Vạn thuộc thành phố Thanh Hóa, xóm có từ đầu thế kỷ XIX, thuộc tổng Lưu Vệ, huyện Quảng Xương, phủ Tĩnh Gia, trấn Thanh Hóa. Từ năm 1945 đến 1954, thuộc xã Quảng Thắng, năm 1954 đến 2012, thuộc xã Quảng Thịnh, huyện Quảng Xương. Năm 2012, xã Quảng Thịnh được sáp nhập về thành phố Thanh Hóa. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Thịnh Vạn

 

57

Văn Chỉ[169]

Văn Chỉ thuộc thành phố Thanh Hóa, là tên tuyến đường Nhân dân đã quen gọi từ xa xưa nhưng chưa chính thức được đặt tên. (Văn Chỉ là nơi tôn vinh đạo học và diễn ra các hoạt động tế lễ, hay cổ vũ khuyến khích học hành thi cử của làng. Hiện nay ở phường Thiệu Dương vẫn còn bia Văn Chỉ).

Văn Chỉ

 

58

Văn Thọ

Văn Thọ được lấy tên của hai làng trước đây là làng Văn Xá và làng Hưng Thọ, sau này sáp nhập thành một phố, nay thuộc phường Quảng Hưng, thành phố Thanh Hóa. Văn Thọ đã được dùng đặt tên cho tuyến đường chạy giữa hai làng nhưng chung một phố.

Văn Thọ[170]

Đường

3.22. Huyện Thiệu Hóa: 15 địa danh

STT

Tên địa danh

Tóm tắt lý lịch

Tên dùng

1

Chợ Đu

Chợ Đu thuộc xã Thiệu Chính, huyện Thiệu Hóa, là địa danh lịch sử gắn liền với truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng của địa phương. Trước kia, trong khởi nghĩa Lam Sơn, nghĩa quân của Lê Lợi đã từng về đây chiêu mộ binh sĩ. Trong thời kì Đảng còn hoạt động bí mật, chợ Đu trở thành điểm hẹn để các chiến sĩ cộng sản gặp gỡ, trao đổi tài liệu. Đặc biệt, cuộc mít tinh, tuần hành lớn ở chợ Đu ngày 14 tháng 7 năm 1939 do Tỉnh ủy tổ chức đã đánh dấu sự phát triển đến đỉnh cao của phong trào cách mạng trong thời kì đấu tranh dân sinh, dân chủ ở Thanh Hóa, Chợ Đu còn là nơi Việt Minh tiến hành rải truyền đơn, diễn thuyết xung phong trong những ngày chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Cũng chính tại đây, chi bộ Đảng đã thành lập “chỉ điểm hưng nghiệp xã" để gây quỹ Đảng. Có thể nói rằng: Chợ Đu đóng vai trò cửa ngõ, tiếp nhận, để phát triển các cơ sở Đảng trong vùng, là nơi diễn ra nhiều sự kiện quan trọng trong phong trào cách mạng của 2 tổng Xuân Lai và Xuân Phong nói riêng, Thiệu Hóa nói chung.

Chợ Đu

2

Đình Đồng Bào

Đình Đồng Bào thuộc làng Đồng Bào[171], xã Thiệu Minh, rồi xã Minh Tân, huyện Thiệu Hóa (nay là thị trấn Hậu Hiền, huyện Thiệu Hoá, tỉnh Thanh Hóa). Nơi đây đã diễn ra nhiều sự kiện lịch sử, nhiều cuộc mít tinh đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân dân địa phương. Đặc biệt, đình đã chứng kiến nhiều đợt huy động sức người, tiễn đưa các lớp con, em thanh niên trong làng chi viện cho chiến trường miền Nam đánh đế quốc Mỹ cứu nước, đóng góp sức của cho kháng chiến, xây dựng quê hương đất nước.

Đồng Bào

3

Đình Đồng Minh

Đình Đồng Minh thuộc làng Đồng Minh[172], xã Thiệu Minh, huyện Thiệu Hóa (nay là thị trấn Hậu Hiền, huyện Thiệu Hóa) thờ Thành Hoàng làng - thần Thiên Lôi, trước năm 1945 là nơi hội họp, nơi nổ ra cuộc đấu tranh đòi giảm thuế thân, nơi luyện tập, cất giấu vũ khí thô sơ được giữ bí mật chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay Nhân dân của đội tự vệ cứu quốc Hà Thanh. Tại đây, năm 1948 Quân khu 3 mở trường Trung học Phan Tây Hồ, Tỉnh ủy mở trường Trung học Trần Phú, Trung ương mở các lớp huấn luyện cán bộ Việt Minh.

Đồng Minh

4

Đình Lam Vĩ

Đình Lam Vĩ thuộc làng Lam Vĩ[173], xã Thiệu Vũ, huyện Thiệu Hóa, là di tích cách mạng rất tiêu biểu, nhiều sự kiện lịch sử của thời kỳ cách mạng (1930 - 1945, 1946 - 1954) đáng nhớ đã diễn ra tại ngôi đình Lam Vĩ này.

Trong kháng chiến chống Pháp, đình Lam Vĩ là nơi tập trung huy động sức người, sức của cho tiền tuyến, nơi phát động các “Tuần lễ vàng”, “Tuần lễ dân quân tự túc”, “Lúa khao quân”, công trái quốc gia, công phiếu kháng chiến, thuế nông nghiệp, dân quân, tòng quân...

Năm 1948, Thủ tướng Phạm Văn Đồng thay mặt Chính phủ về tại đình Lam Vĩ để truyền đạt chủ trương của Chính phủ với Ủy ban hành chính kháng chiến liên khu IV và Ủy ban hành chính kháng chiến tỉnh Thanh Hóa (khi đó đóng ở làng Lam Vĩ) để phát động việc xây dựng hậu phương và kháng chiến trường kỳ. Sau đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã có cuộc nói chuyện với Nhân dân Lam Vĩ và Nhân dân các làng lân cận để kêu gọi mọi tầng lớp quần chúng đoàn kết một lòng ủng hộ kháng chiến.

Lam Vĩ

5

Làng Viên Nội

Làng Viên Nội[174] thuộc xã Thiệu Viên, huyện Thiệu Hóa là nơi đặt trụ sở làm việc của Tỉnh ủy Thanh Hóa (thời kỳ 1967 - 1973). Nơi đây gắn liền với nhiều sự kiện quan trọng của tỉnh trong thời kỳ từ năm 1967 đến năm 1973 như: Ngày 6 - 9 -1969, tại hội trường lớn của tỉnh (làng Viên Nội, xã Thiệu Viên, huyện Thiệu Hóa), Tỉnh ủy, Ủy ban hành chính tỉnh, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh tổ chức trọng thể lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, hàng ngàn đại biểu, Nhân dân đại diện cho các dân tộc, tôn giáo, các ngành, các địa phương từ khắp nơi trong tỉnh về dự lễ truy điệu.

Cuối năm 1969, tại đây đã diễn ra Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ 7 (từ ngày 21/10/1969 đến 4/11/1969); Từ ngày 4/6 đến ngày 6/4/1971, nơi đây đã diễn ra Đại hội toàn quân tỉnh Thanh Hóa; ngoài ra, đây còn là nơi đón tiếp nhiều đoàn đại biểu quốc tế nước bạn Lào, Campuchia và ban hành nhiều Nghị quyết, Chỉ thị, những lời kêu gọi Nhân dân trong tỉnh ra sức sản xuất và chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ góp phần thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ thống nhất đất nước của cả dân tộc.

Viên Nội

6

Làng Yên Lộ

Làng Yên Lộ[175], xưa còn gọi là làng An Lộ. Trước năm 1945, làng Yên Lộ thuộc về tổng Phù Chẩn, huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, nay thuộc xã Thiệu Vũ, huyện Thiệu Hóa. Làng có chùa Yên Lộ là di tích lịch sử cách mạng ghi dấu nhiều sự kiện quan trọng trong thời kỳ Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa hoạt động bí mật (1930 - 1945). Tại di tích, những năm 1935 - 1936, Tỉnh ủy Thanh Hóa đã nhiều lần tổ chức hội nghị củng cố tổ chức, phong trào, địa điểm họp kín của các cán bộ cách mạng trong tỉnh, huyện, tổng. Đây là địa danh đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Yên Lộ

7

Làng Đoán Quyết

Làng Đoán Quyết[176] có từ thế kỷ XIX đến trước năm 1945, thuộc xã Đông Lễ, tổng Mật Vật, huyện Thụy Nguyên, nay là xã Thiệu Phúc, huyện Thiệu Hóa. Làng có Văn Từ - Bia Ký, làng Đoán Quyết được Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin (nay là Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử văn hóa cần được bảo vệ và phát huy tác dụng tại Quyết định số 255/QĐ-VHTT ngày 28/1/2004. Đây là địa danh đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Đoán Quyết

8

Làng Đông Lỗ

Làng Đông Lỗ[177] có từ thế kỷ X, đầu thế kỷ XIX là làng Cựu thuộc xã Đông Lễ, tổng Mật Vật, huyện Thụy Nguyên, nay là xã Thiệu Long, huyện Thiệu Hóa. Làng có nghè làng Đông Lỗ được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa tại Quyết định số 180/QĐ-UBND ngày 15/1/2016. Đây là địa danh đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Đông Lỗ

9

Làng Kẻ Chè

Làng Kẻ Chè[178] (có tên gọi khác là làng Trà Sơn Đông) thuộc xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa, là làng cổ, nơi có nghề đúc đồng nổi tiếng. Đây là địa danh đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Kẻ Chè

10

Làng Kẻ Rị

Làng Kẻ Rị[179] (có tên gọi khác là làng Phủ Lý) có từ thế kỷ X, là làng cổ, quê hương nhà sử học Lê Văn Hưu. Đây là địa danh đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Kẻ Rị

11

Làng Phúc Lộc

Làng Phúc Lộc[180] tên nôm là làng Chuộc, đầu thế kỷ XIX, thuộc tổng Phù Chẩn, huyện Thụy Nguyên (nay thuộc thôn Phúc Lộc, xã Thiệu Tiến, huyện Thiệu Hóa) là một địa chỉ đỏ trong lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và Nhân dân huyện Thiệu Hóa. Tại nhà thờ họ Vương (di tích lịch sử cách mạng) đã diễn ra Hội nghị thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên của huyện Thiệu Hóa, ngày 10 tháng 7 năm 1930. Đây là một trong ba chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa. Đây là địa danh đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Phúc Lộc

12

Làng Tam Xá

Làng Tam Xá thuộc xã Thiệu Giao, huyện Thiệu Hóa, tên làng Tam Xá có từ năm 1900, thuộc tổng Đại Bối, huyện Đông Sơn, nay thuộc xã Thiệu Giao, huyện Thiệu Hóa, đây là địa danh cổ, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Tam Xá

13

Làng Tân Bình

Làng Tân Bình[181] từ đầu thế kỷ XIX đến trước năm 1945 là Bình Ngô thuộc tổng Phù Chẩn, huyện Thụy Nguyên, nay thuộc xã Thiệu Ngọc, huyện Thiệu Hóa, làng có đình làng Tân Bình được Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin (nay là Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật tại Quyết định số 230/QĐ-VHTT ngày 08/7/1995 và và được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh cấp bằng xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh tại Quyết định số 181/QĐ-UBND ngày 17/01/2011. Đây là địa danh đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Tân Bình

14

Ngã Ba Chè

Ngã Ba Chè thuộc huyện Thiệu Hóa, một ngã ba giao thông nổi tiếng ở trong tỉnh được đặt tên từ thời Pháp thuộc cho đến nay. Đây là địa danh quen thuộc, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Ngã Ba Chè

15

Núi Bằng Trình

Núi Bằng Trình là ngọn núi đá có hình thù và màu sắc rất đẹp nổi lên ở vùng đồng bằng hạ lưu sông Mã, sông Chu, là 1 trong 10 cảnh đẹp nằm trong quần thể di tích thắng cảnh Bàn A Sơn nổi tiếng của xứ Thanh và cả nước thuộc địa bàn xã Thiệu Hợp, huyện Thiệu Hóa được nhiều sử sách ghi chép. Năm 2008, thắng cảnh núi Bằng Trình và chùa Thái Bình được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa xếp hạng là di tích danh lam thắng cảnh tại Quyết định số 3332/QĐ-UBND ngày 22/10/2008. Năm 2019, được công nhận là điểm du lịch của tỉnh.

Bằng Trình

3.23. Huyện Thọ Xuân: 15 địa danh

STT

Tên địa danh

Tóm tắt lý lịch

Tên dùng

1

Chợ Neo

Chợ Neo thuộc xã Bắc Lương, huyện Thọ Xuân. Nơi đây diễn ra cuộc biểu tình thị uy lớn cuối thời kỳ vận động dân chủ (1939) do Đảng bộ tỉnh tổ chức đã gây được tiếng vang lớn. Tại làng Neo, năm 1930 cũng thành lập được chi bộ Đảng Cộng sản. Đây là địa danh đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Chợ Neo

2

Làng Giữa

Làng Giữa[182] thuộc xã Xuân Quang, huyện Thọ Xuân, làng có đình làng Giữa được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa tại Quyết định số 69/QĐ-CT ngày 10/01/2005. Đây là địa danh đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Làng Giữa

3

Làng Hương Nhượng

Làng Hương Nhượng thuộc xã Thọ Hải, huyện Thọ Xuân ngày nay, làng được hình thành từ xa xưa, đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân. Làng có đình làng Hương Nhượng được Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin (nay là Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật tại Quyết định số 158/QĐ-VHTT ngày 22/5/2001 và được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh cấp bằng xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh tại 148/QĐ-UBND ngày 17/01/2011. Đình làng Hương Nhượng là địa danh được nhiều người biết đến.

Hương Nhượng

4

Làng Kim Ốc

Làng Kim Ốc[183] thuộc xã Xuân Hòa, huyện Thọ Xuân, là làng cách mạng tiêu biểu của huyện, của tỉnh thời kỳ 1930 - 1945. Đây là địa danh đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Kim Ốc

5

Làng Lễ Nghĩa

Làng Lễ Nghĩa[184] trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 thuộc xã Trung Vực (nay là xã Xuân Thành, huyện Thọ Xuân). Đình làng Lê Nghĩa được Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin (nay là Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật tại Quyết định số 49/QĐ-VHTT ngày 17/01/2003 và được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh cấp bằng xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh tại Quyết định số 154/QĐ-UBND ngày 17/01/2011. Đây là địa danh đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Lễ Nghĩa

6

Làng Long Linh

Làng Long Linh[185] thuộc xã Trường Xuân, huyện Thọ Xuân, là một làng có phong trào cách mạng tiêu biểu ở trong tỉnh thời kỳ 1930-1945. Năm 1934, tờ báo Hồn lao động - Cơ quan ngôn luận của Đảng bộ Thanh Hóa được xuất bản bí mật tại đây. Đây là làng có nhiều chiến sĩ du kích Ngọc Trạo, là “Làng Đỏ” tiêu biểu, đi đầu trong phong trào xây dựng lực lượng tự vệ cứu quốc trước năm 1945. Đây là địa danh đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Long Linh

7

Làng Ngọc Trung

Làng Ngọc Trung thuộc xã Xuân Minh, huyện Thọ Xuân, là địa chỉ đỏ có phong trào cách mạng tiêu biểu ở Thanh Hóa trong thời kỳ 1930 - 1945. Đây là địa danh đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Ngọc Trung

8

Làng Phong Cốc

Làng Phong Cốc[186] trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 thuộc xã Minh Nghĩa, tổng Thử Cốc, phủ Thiệu Hóa (nay là xã Xuân Minh, huyện Thọ Xuân), là địa chỉ đỏ có phong trào cách mạng tiêu biểu ở Thanh Hóa trong thời kỳ 1930 - 1945. Đây là địa danh đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Phong Cốc

9

Làng Phú Tình

Làng Phú Tình thuộc xã Xuân Minh, huyện Thọ Xuân, là địa chỉ đỏ có phong trào cách mạng tiêu biểu ở Thanh Hóa trong thời kỳ 1930 - 1945. Đây là địa danh đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Phú Tình

10

Làng Phúc Bồi

Làng Phúc Bồi[187] thuộc xã Thọ Lập, huyện Thọ Xuân, là làng cách mạng tiêu biểu thời kỳ 1930 - 1945. Đây là địa danh đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Phúc Bồi

11

Làng Quang Hoa

Làng Quang Hoa[188] trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 thuộc xã Minh Nghĩa, tổng Thử Cốc, phủ Thiệu Hóa (nay là xã Xuân Minh, huyện Thọ Xuân), là địa chỉ đỏ có phong trào cách mạng tiêu biểu ở Thanh Hóa trong thời kỳ 1930 - 1945. Đây là địa danh đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Quang Hoa

12

Làng Thuần Hậu

Làng Thuần Hậu[189] trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 thuộc xã Minh Nghĩa, tổng Thử Cốc, phủ Thiệu Hóa (nay là xã Xuân Minh, huyện Thọ Xuân), là địa chỉ đỏ có phong trào cách mạng tiêu biểu ở Thanh Hóa trong thời kỳ 1930 - 1945. Đây là địa danh đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Thuần Hậu

13

Làng Xá Lê

Làng Xá Lê[190] trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 thuộc xã Minh Nghĩa, tổng Thử Cốc, phủ Thiệu Hóa (nay thuộc xã Xuân Minh, huyện Thọ Xuân), là địa chỉ đỏ có phong trào cách mạng tiêu biểu ở Thanh Hóa trong thời kỳ 1930 - 1945. Đây là địa danh đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Xá Lê

14

Làng Xuân Phả

Làng Xuân Phả[191] là một làng cổ thuộc xã Xuân Trường, huyện Thọ Xuân. Nơi đây còn bảo lưu các trò diễn truyền thống như Tú Huần, Bình Ngô Phá Trận, Xiêm Thành, Chăm Pa...mà các nhà nghiên cứu gọi chung là “Trò Xuân Phả”. Trò diễn này được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào danh mục là di sản phi vật thể cấp Quốc gia tại Quyết định số 3247/QĐ-BVHTTDL ngày 16/9/2016. Đây là địa danh đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Xuân Phả

15

Làng Xuân Phố

Làng Xuân Phố (là xóm Thọ Khang), thuộc xã Xuân Trường, huyện Lôi Dương, sau năm 1965 thành lập thị trấn Thọ Xuân (gọi tắt là Phủ Thọ) là một địa danh nổi tiếng trước đây.

Xuân Phố

3.24. Huyện Thường Xuân: 16 địa danh

STT

Tên địa danh

Tóm tắt lý lịch

Tên dùng

1

Cầu Bến Nhạ

Cầu Bến Nhạ thuộc xã Tân Thành, huyện Thường Xuân, là địa danh có ý nghĩa lịch sử trong kháng chiến chống Mỹ, là nơi trung chuyển lương thực, vũ khí đạn dược của tuyến giao thông huyết mạch 15A (nay là đường mòn Hồ Chí Minh) nhằm chi viện cho chiến trường miền Nam. Đây là trọng điểm đánh phá ác liệt của máy bay Mỹ nhằm cắt đứt tuyến giao thông huyết mạch này.

Bến Nhạ

2

Châu Thường

Châu Thường (còn gọi là châu Thường Xuân thuộc huyện Thường Xuân), từ năm Minh Mệnh thứ 18 (1837), là tên của huyện Thường Xuân ngày nay.

Châu Thường

3

Đồi Pú Pen

Đồi Pú Pen thuộc xã Vạn Xuân, huyện Thường Xuân. Pú Pen (hay còn gọi là Pú Mướng) là ngọn đồi nơi có đền thờ trời (Hướn Pen), hàng năm diễn ra lễ tục dâng trâu tế trời của dân tộc Thái mường Chiếng Ván (tức Trịnh Vạn).

Pú Pen

4

Đồng Mới

Đồng Mới[192] thuộc huyện Thường Xuân, tên gọi cũ của thị trấn Thường Xuân ngày nay. Đến năm 1988, trung tâm huyện Thường Xuân chuyển từ xã Xuân Cẩm về ngã ba Đồng Chó và đổi tên là Đồng Mới, nay là thị trấn Thường Xuân. Đây là địa danh đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Đồng Mới

5

Hang Lãm

Hang Lãm thuộc huyện Thường Xuân, trước kia là kho E - Binh trạm 10 đoàn 559, trạm trung chuyển lương thực, vũ khí, đạn dược của đoàn 559 cho chiến trường miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ.

Hang Lãm

6

Hòn đá Mài Mực

Hòn đá Mài Mực thuộc huyện Thường Xuân, nằm giữa dòng sông Chu, thuộc xã Xuân Mỹ trước đây (nay là vùng hạ du hồ Cửa Đạt), tương truyền là nơi Lê Lợi hạ trại, dấu vết còn lại là hòn đá Mài Mực.

Mài Mực

7

Làng Phụng Dưỡng

Làng Phụng Dưỡng thuộc thôn Xuân Thắng, xã Ngọc Phụng, huyện Thường Xuân, là tên có từ thời Lê gắn với khởi nghĩa Lam Sơn.

Phụng Dưỡng

8

Mỹ Tế

Mỹ Tế thuộc huyện Thường Xuân, là tên một địa danh lịch sử, là di chỉ khảo cổ tiền Đông Sơn.

Mỹ Tế

9

Ngọc Lâm

Ngọc Lâm[193] thuộc huyện Thường Xuân, là tên cũ của khu phố 1, thị trấn Thường Xuân, được đặt tên từ trước năm 1945. Đây là địa danh đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Ngọc Lâm

10

Núi Pù Gió

Núi Pù Gió thuộc huyện Thường Xuân, Pù Gió (hay Pú Cho) cao 1.620m, là đỉnh núi cao nhất trong hệ thống các đỉnh núi cao và các dãy núi dài của huyện Thường Xuân, nằm ở địa giới xã Vạn Xuân, xã Xuân Lẹ, huyện Thường Xuân và xã Đồng Văn, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An. Đây là nơi có khí hậu rất đặc biệt luôn mát mẻ với các hệ sinh thái rừng trên núi cao có các loài thực vật cổ sinh gồm cả những loài cho hoa đẹp như đỗ quyên, các loài lan, đặc biệt tại đỉnh núi này còn có một xác máy bay của đế quốc Mỹ bị bắn rơi trong chiến tranh.

Pù Gió

11

Núi Thé

Núi Thé thuộc xã Xuân Cao, huyện Thường Xuân. Tại đây đã phát hiện được nhiều công cụ, dụng cụ bằng đồng và các đồ gốm thuộc văn hóa Đông Sơn và hậu Đông Sơn. Di tích được coi là di tích văn hóa Đông Sơn quan trọng nhất ở miền tây Thanh Hóa.

Núi Thé

12

Tân Long

Tân Long[194] thuộc huyện Thường Xuân, là tên cũ của khu phố 5, thị trấn Thường Xuân, được đặt tên từ trước năm 1945. Đây là địa danh đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Tân Long

13

Tổ Rồng

Tổ Rồng thuộc huyện Thường Xuân, là tên một khúc sông Chu đoạn chảy qua thôn Thanh Long, Thanh Cao (xã Thọ Thanh) và Xuân Minh (xã Xuân Cao), là một địa danh gắn liền với nhiều di tích lịch sử của thời kỳ khởi nghĩa Lam Sơn.

Tổ Rồng

14

Trịnh Cao

Trịnh Cao thuộc huyện Thường Xuân, là căn cứ trung tâm trong hệ thống căn cứ núi Chí Linh của nghĩa quân Lam Sơn thuộc xã Xuân Khao trước đây (nay đã giải thể di dân xây dựng công trình thủy lợi - thủy điện Cửa Đạt).

Trịnh Cao

15

Xã Bát Mọt

Xã Bát Mọt[195] (còn gọi là Bất Một) là vùng đất xưa thuộc Mường Húng, sau là Mường Mót. Thời Nguyễn - Minh Mệnh thứ 18 (1837) là xã Bất Một thuộc châu Thường Xuân. Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, xã Bát Mọt thuộc huyện Thường Xuân. Đây là địa danh đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Năm 1926, Mađơlen Côlani - nhà khảo cổ và địa chất học người Pháp đã tìm thấy dấu vết hoạt động của con người thời tiền sử cách ngày nay khoảng 2 vạn năm tại xã Bát Mọt. Côlani đã phát hiện được nơi cư trú của người nguyên thủy ở một hang động, sau này đặt tên là hang Chuông. Qua tìm kiếm, khai quật được 96 di vật đá gồm chày đá, hòn ghè, rìu thô hình đĩa, rìu ngắn, nạo đá...Đây là địa điểm cư trú của người nguyên thủy cùng với dấu vết săn bắt và sản xuất.

Bát Mọt

16

Xã Xuân Cẩm

Xã Xuân Cẩm thuộc huyện Thường Xuân. Trước kia là một xã, nay đã sáp nhập vào thị trấn Thường Xuân theo Nghị quyết số 786/NQ-UBTVQH14 ngày 16/10/2019 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Xuân Cẩm

3.25. Huyện Triệu Sơn: 02 địa danh

STT

Tên địa danh

Tóm tắt lý lịch

Tên dùng

1

Làng Phú Hào

Làng Phú Hào[196] là làng cổ thuộc tổng Bất Náo, huyện Lôi Dương, phủ Thọ Xuân, nay là xã Thọ Phú, huyện Triệu Sơn, là nơi sinh và nơi thờ tự Lê lệnh công Lê Thì Hiến và các danh tướng họ Lê Thì thời Lê Trung Hưng. Hiện nay, quần thể Di tích bia và lăng mộ Lê Thì Hiến được Bộ Trưởng Bộ Văn hóa (nay là Bộ Trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia tại Quyết định số 2015/QĐ-BTBVH ngày 16/12/1993, nơi đây còn một đôi voi phục, một đôi tuấn mã, văn bia, hương án, sập ngự... là những dấu tích quý giá còn sót lại và có giá trị cao đối với ngành điêu khắc đá. Đây là địa danh đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Phú Hào

2

Làng Tam Lạc

Làng Tam Lạc[197] thuộc xã Xuân Thọ, huyện Triệu Sơn. Đây là địa danh Ủy ban kháng chiến Xuân Thọ đặt trụ sở làm việc tại đình Tam Lạc thời kỳ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945. Vào năm 1950, Sư đoàn 304, Đại đoàn Vinh Quang, đơn vị chủ lực quân thứ hai của Quân đội nhân dân Việt Nam cũng được thành lập tại đây. Năm 1952, đình Tam Lạc thuộc làng Tam Lạc còn là nơi tổ chức Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa, Đại hội Chiến sĩ thi đua toàn quân... Đình Tam Lạc không chỉ lưu giữ các giá trị văn hóa mà đây còn là một “địa chỉ đỏ” về truyền thống lịch sử và cách mạng.

Tam Lạc

3.26. Huyện Vĩnh Lộc: 21 địa danh

STT

Tên địa danh

Tóm tắt lý lịch

Tên dùng

1

Cán Cờ

Cán Cờ thuộc huyện Vĩnh Lộc, là địa danh (con đường) đi vào thôn Đa Bút, được hình thành do Bà Chúa Nguyễn Thị Ngọc Bảo vợ Trịnh Kiểm chiêu mộ người dân chỉ đắp trong 1 đêm hình thành con đường. Địa danh đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Cán Cờ

2

Đền Tam Tổng

Đền Tam Tổng thuộc thôn Phố Mới, xã Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc, cách Thành nhà Hồ khoảng gần 1 km về phía Nam, nằm ngay bên trục đường Hoa Nhai (đường Hoàng Gia) từ cửa Nam Thành nhà Hồ đến Đàn tế Nam Giao. Đây là ngôi đền có từ lâu đời, được nhiều người biết đến, địa danh quen thuộc của Nhân dân trong vùng.

Tam Tổng

3

Đình Yên Tôn Hạ

Đình Yên Tôn Hạ nằm ở làng Hạ, xã Vĩnh Yên, huyện Vĩnh Lộc. Đình được xây dựng từ triều Nguyễn, thờ Cao sơn tôn thần. Năm 2008, đình Yên Tôn Hạ được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật tại Quyết định số 3332/QĐ-UBND ngày 22/10/2008. Đây là địa danh đã ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Yên Tôn Hạ

4

Hoa Nhai[198]

Hoa Nhai thuộc huyện Vĩnh Lộc, tên gọi một con đường, tương truyền khi xây thành Tây Đô, Hồ Quý Ly đã cho làm một con đường (đường Hoa Nhai hay đường Hoàng Gia) từ cửa Nam tới chùa Tường Vân, đàn Nam Giao để các thân vương, quý tộc đến chùa lễ Phật cầu phúc cho chúng sinh. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Hoa Nhai

5

La Thành

La Thành thuộc huyện Vĩnh Lộc, là tên gọi một trong ba bộ phận của Thành nhà Hồ gồm: La Thành, Hào Thành, Hoàng Thành. Trên địa bàn xã Vĩnh Thành (nay là thị trấn Vĩnh Lộc) có đoạn thành Đại La (La Thành) là giáp ranh giữa làng Hà Lương và làng Cao Mật dài khoảng 700m từ bờ sông Mã đến chân núi Đún (phía Tây), hiện nay được sử dụng làm đường giao thông và san bằng làm đất thổ cư, đất canh tác.

La Thành

6

Làng Bồng Hạ

Làng Bồng Hạ[199] nay thuộc xã Minh Tân, huyện Vĩnh Lộc. Trước đây gồm hai thôn: Thị thôn và Lại thôn. Năm Khải Định thứ 10 (1925), hai thôn nhập lại thành Bồng Hạ. Làng Bồng Hạ chính là trung tâm của Biện Hạ trước đây. Biện Hạ chính là lỵ sở của huyện Vĩnh Lộc trong nhiều thời kì. Đây là địa danh nhiều người biết đến, ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Bồng Hạ

7

Làng Bồng Trung

Làng Bồng Trung[200] thuộc xã Vĩnh Tân (nay là xã Minh Tân, huyện Vĩnh Lộc). Bồng Trung xưa có tên là Đông Biện phường, được thành lập năm Hồng Thuận thời vua Lê Tương Dực, Kỷ Tỵ (1509-1510). Khi Hồ Quý Ly xây thành An Tôn đã bắt nhiều người họ Mai ở đất Nga Sơn - Thanh Hóa đi làm phu phen, tạp dịch xây thành. Người Nga Sơn đi qua vùng đất này thấy đất đai màu mỡ, có núi sông, cảnh đẹp họ liền ở đây lập nghiệp cùng với các họ Đỗ, họ Hoàng, họ Phạm sinh sống quy tụ dân cư lập nên làng Đông Biện. Đến cuối thế kỷ XIX dưới triều vua Đồng Khánh, làng Đông Biện đổi thành làng Bồng Trung vì chữ "Biện" là tên húy của nhà vua.

Bồng Trung

8

Làng Đông Môn

Làng Đông Môn[201] thuộc huyện Vĩnh Lộc. Lịch sử hình thành và phát triển làng Đông Môn gắn liền với vương triều Hồ và thành An Tôn. Trước triều Trần, vùng đất này trực thuộc đất quận Nhật Nam, sang triều Hồ nằm trong động An Tôn. Đến thời Lê Trung Hưng thuộc phủ Quảng Hóa và mãi tới thời Tây Sơn mới được gọi là Đông Môn thuộc xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc.

Đông Môn

9

Làng Hà Lương

Làng Hà Lương[202] thuộc thôn 5, xã Vĩnh Thành, huyện Vĩnh Lộc, trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 thuộc phủ Quảng Hóa, tổng Cao Mật. Làng Hà Lương buổi đầu gọi là ấp A Lãng, rồi Lương Hà, Hà Lưỡng, Hà Lãng...Sau cuộc kháng chiến lần thứ nhất chống quân Mông Cổ giành thắng lợi, Tết Nguyên đán Mậu Ngọ (năm 1258), vua Trần Thái Tông phong thưởng cho các tướng soái có công, đứng đầu là tướng Lê Tần và Hà Bổng. Cũng năm này, Lê Tần đổi thành Lê Phụ Trần. Lê Phụ Trần được vua phong thái ấp ở Hà Lương đã đưa dòng họ đến khẩn hoang, phát triển kinh tế và lập làng, tính đến nay đã là hơn 700 năm.

Hà Lương

10

Làng Kim Bôi

Làng Kim Bôi[203] còn có tên là làng Giang Đông, thuộc xã Vĩnh Hòa, huyện Vĩnh Lộc, trước năm 1953, thuộc tổng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc. Làng có danh tướng Trịnh Khả là bậc khai quốc công thần, làm quan dưới 3 triều vua Lê: Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông được ban quốc tính họ vua gọi là Lê Khả. Đây là địa danh nhiều người biết đến, ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Kim Bôi

11

Làng Nghĩa Kỳ

Làng Nghĩa Kỳ[204], còn có tên gọi khác là làng Phúc Trường, xã Vĩnh Hòa, huyện Vĩnh Lộc, trước năm 1953, thuộc tổng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc. Là quê hương của đồng chí Trịnh Huy Quang - Người đã tham gia tổ chức cách mạng đầu tiên ở xã, huyện Vĩnh Lộc, một số nơi trong tỉnh. Đặc biệt nơi đây có đình làng Nghĩa Kỳ là nơi thờ Thành Hoàng Quản Gia Đô Bác và là nơi diễn ra nhiều sự kiện cách mạng. Năm 2022, đình được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật tại Quyết định số 3738/QĐ-UBND ngày 02/11/2022.

Nghĩa Kỳ

12

Làng Nhân Lộ

Làng Nhân Lộ thuộc thôn 2, xã Vĩnh Thành, huyện Vĩnh Lộc. Nhân Lộ tên khởi đầu là làng Giò. Làng Giò xưa kia là nơi hoang vu, rậm rạp đã được những cư dân đến trước khai phá rồi lập nên làng xóm, sau này gọi là làng Nhân Lộ. Từ ngày 06 tháng 12 năm 2020, tên của thôn 2 được đổi thành khu phố Nhân Lộ - thị trấn Vĩnh Lộc.

Nhân Lộ

13

Làng Phụng Công

Làng Phụng Công[205] thuộc thôn 7, xã Vĩnh Thành, huyện Vĩnh Lộc, trước năm 1953, thuộc phủ Quảng Hóa, tổng Cao Mật. Làng Phụng Công chính tên là Phượng Công, vì có đỉnh núi ở đầu làng như đầu con chim Phượng, chân núi xòe ra ở cuối làng như đuôi con chim công, nên có tên là Phượng Công. Vì “Phượng” cũng là “Phụng” nên dân gọi ra là Phụng Công và gọi tắt là làng Công hay còn gọi là thôn 7. Từ ngày 06 tháng 12 năm 2020, tên của thôn 7 được đổi thành khu phố Phụng Công - thị trấn Vĩnh Lộc.

Phụng Công

14

Làng Quang Biểu

Làng Quang Biểu[206] còn có tên gọi khác là làng Bỉm thuộc xã Vĩnh Hòa, huyện Vĩnh Lộc, trước năm 1953 thuộc tổng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc. Trong thời kỳ chuẩn bị đấu tranh giành chính quyền về tay Nhân dân, tờ báo “Tia sáng” tiếng nói của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa được cơ quan ấn loát từng đặt tại nhà ông Trịnh Văn Chế (làng Quang Biểu). Đặc biệt, làng có Cụm di tích Đình - Phủ - Chùa được Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin (nay là Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử văn hóa cần được bảo vệ và phát huy tác dụng tại Quyết định số 44/QĐ-VHTT ngày 17/1/2003 và được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh cấp bằng xếp hạng di tích cấp tỉnh tại Quyết định số 4146/QĐ-UBND ngày 13/12/2011.

Quang Biểu

15

Làng Thành Nhân

Làng Thành Nhân[207] thuộc thôn 1, xã Vĩnh Thành, huyện Vĩnh Lộc, trước năm 1953, thuộc phủ Quảng Hóa, tổng Cao Mật. Từ đầu thế kỷ XIX, triều Nguyễn lập vành đai trung du những đồn lính gọi là đồn Sơn Phòng. Các cư dân đã đến xung quanh khu vực đồn Sơn Phòng khai phá đất đai, lập nhà cửa, do đó nhiều đồn Sơn Phòng đã trở thành làng, trong đó có làng Ấp, nay là làng Quảng Nhân. Từ ngày 06 tháng 12 năm 2020, tên của thôn 1 được đổi thành khu phố Thành Nhân - thị trấn Vĩnh Lộc.

Thành Nhân

16

Làng Vực

Làng Vực hay còn gọi là Vực Thôn, trước thuộc xã Vĩnh Minh, nay thuộc xã Minh Tân, huyện Vĩnh Lộc. Đây là làng cổ có từ lâu đời, làng có ngôi đình cổ có giá trị về kiến trúc nghệ thuật. Năm 2012, đình làng Vực được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật theo Quyết định số 2998/QĐ-UBND ngày 14/9/2012. Đây là địa danh nhiều người biết đến, ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Làng Vực, Vực Thôn

17

Làng Yên Tôn Thượng

Làng Yên Tôn Thượng[208] trước năm 1945, thuộc phủ Quảng Hóa, tổng Cao Mật, từ năm 1953 thuộc xã Vĩnh Yên, huyện Vĩnh Lộc. Làng có từ lâu đời có bề dày về truyền thống lịch sử văn hóa. Đặc biệt, làng có ngôi đình (đình Yên Tôn Thượng) ngay dưới chân núi Độn, trước mặt là dòng sông Mã, liền kề phía Tây giáp núi An Tôn. Theo các đạo sắc phong và sách “Thanh Hóa chư thần lục” cho biết đình làng Yên Tôn Thượng được xây dựng từ lâu đời, đến năm Thành Thái thứ 11 (1899) cho sửa lại. Với giá trị về kiến trúc nghệ thuật, đình làng Yên Tôn Thượng được Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin (nay là Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật theo Quyết định số 74/QĐ-VHTT ngày 8/2/2002 và được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh cấp bằng xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh tại Quyết định số 4144/QĐ-UBND ngày 13/12/2011.

Yên Tôn Thượng

18

Ngõ Gạch

Ngõ Gạch thuộc xã Minh Tân, huyện Vĩnh Lộc, là con đường chính giữa đi vào làng Bồng Trung được Nhân dân quen dùng từ cuối thế kỷ XIX. Theo tương truyền: “làng Bồng Trung từ xưa quy định, mỗi cặp trai, gái khi kết hôn phải đóng cho làng 100 viên gạch để lát hai bên đường trục chính của làng”. Vì vậy Nhân dân trong làng quen gọi con đường ấy là Ngõ Gạch.

Ngõ Gạch

19

Núi Đún Sơn

Núi Đún Sơn ngày nay thuộc thị trấn Vĩnh Lộc, là tên gọi từ thời nhà Trần, đây là ngọn núi gắn với sự kiện Thượng tướng Trần Khát Chân cùng với tướng lĩnh nhà Trần lập Hội: "Minh Thệ" âm mưu sát hại Hồ Quý Ly, nhưng không thành. Trần Khát Chân và các tướng lĩnh bị giết tại núi Đún Sơn (Đại Việt sử ký toàn thư chép).

Đún Sơn

20

Thôn Bồng Thượng

Thôn Bồng Thượng[209] (làng Báo) thuộc xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc, là một trong ba thôn thuộc tổng Biện Thượng (Bồng Thượng), quê hương nhà Trịnh. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Bồng Thượng

21

Xã Xuân Áng

Xã Xuân Áng[210] nay là xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc. Theo sách Đồng Khánh địa dư chí, năm Tự Đức thứ 33 (1879) có tên xã Xuân Áng. Từ năm 1953, thành lập các làng, xã của huyện Vĩnh Lộc, Xuân Áng là một trong 9 làng của xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh Thạch. Năm 1983, tách 2 huyện Vĩnh Lộc và Thạch Thành, Xuân Áng thuộc huyện Vĩnh Lộc. Chùa Xuân Áng là nơi thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên của huyện Vĩnh Lộc (16/4/1934) được Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin (nay là Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử cách mạng cần được bảo vệ và phát huy tác dụng tại Quyết định số 118/QĐ-SVHTT ngày 24/4/1995. Năm 1941, đây là nơi trú quân của đoàn du kích Ngọc Trạo. Đình Xuân Áng được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa tại Quyết định số 3009/QĐ-UBND ngày 14/9/2012.

Xuân Áng

3.27, Huyện Yên Định: 08 địa danh

STT

Tên địa danh

Tóm tắt lý lịch

Tên dùng

1

Bãi Lai

Bãi Lai thuộc huyện Yên Định. Đây là một địa danh khi mới xây dựng nông trường Thống Nhất trước đây và hiện nay đã đặt tên một cây cầu bắc qua sông Hép thuộc địa giới thị trấn Thống Nhất, huyện Yên Định. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Bãi Lai

2

Chợ Bản

Chợ Bản trước thuộc làng Bản, xã Định Tăng, huyện Yên Định, sau nhiều lần di chuyển địa điểm từ Định Hải và thị trấn Quán Lào. Đến nay chuyển về đóng tại thôn Tân Ngữ 2, xã Định Long - Một chợ truyền thống có từ lâu đời. Đây là địa danh ăn sâu vào tiềm thức của Nhân dân.

Chợ Bản

3

Đình Làng Hổ

Đình Làng Hổ thuộc xã Định Hưng nay là thị trấn Quán Lào, huyện Yên Định, nơi thờ công chúa Phương Hoa - người có công lập làng. Năm 2017, với những giá trị lịch sử và văn hóa đình làng Hổ được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa xếp hạng là di tích lịch sử theo Quyết định số 264/QĐ-UBND ngày 20/01/2017.

Làng Hổ

4

Làng Kênh

Làng Kênh thuộc xã Định Tân, huyện Yên Định được hình thành từ xóm Kênh. Theo lịch sử địa phương cho biết, vào thời vua Gia Long (triều Nguyễn), xóm Kênh xin tách khỏi làng Tràng Lang (làng Dài) để lập thành Kênh Thôn, là ngôi đình có giá trị về lịch sử. Đình là nơi thờ Thành Hoàng làng, vị thần bảo hộ, mang lại bình yên cho Nhân dân trong làng và được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa xếp hạng là di tích lịch sử theo Quyết định số 2517/QĐ-UBND ngày 04/8/2011.

Làng Kênh

5

Làng Lê

Làng Lê thuộc xã Yên Thái, huyện Yên Định. Nơi đây có giống cải trồng trên bãi để muối dưa ăn rất ngon, đây từng là đặc sản để tiến vua, Nhân dân gần xa vẫn quen gọi là Dưa Lê (tức Dưa cải làng Lê).

Làng Lê

6

Làng Phù Hưng

Làng Phù Hưng[211] thuộc xã Yên Thái, huyện Yên Định. Là làng cổ ra đời từ rất sớm, chứa đựng nhiều giá trị lịch sử, văn hóa và cách mạng. Đặc biệt làng có đình làng Phù Hưng là di tích lịch sử văn hóa và cách mạng theo Quyết định số 230/VHQĐ ngày 08/7/1995 và Quyết định số 171/QĐ-UBND ngày 17/01/2011.

Phù Hưng

7

Làng Thiết Đinh

Làng Thiết Đinh[212] thuộc xã Định Tường, huyện Yên Định (nay là khu phố Thiết Đinh, thị trấn Quán Lào) được lập từ thời Tiền Lê với ông tổ là Lê Huệ Nhỡn đến Lê Đình Kiên là đời thứ chín. Làng còn được gọi là bản Đanh thuộc xứ xã bản (bản Vọc, bản Chùa, bản Chợ, bản Đanh).

Thiết Đinh

8

Phố Thăng Long

Phố Thăng Long thuộc huyện Yên Định, là tên gọi của thủ đô Hà Nội xưa kia và là tên gọi của khu phố Thăng Long thuộc thị trấn Thống Nhất từ khi được thành lập.

Thăng Long

II. TỪ CÓ Ý NGHĨA TIÊU BIỂU VỀ CHÍNH TRỊ, VĂN HÓA, XÃ HỘI: 11 TỪ

STT

Từ

Tóm tắt lý lịch

Tên dùng

1

Dũng Cảm

Dũng Cảm: Là tinh thần chiến đấu quên mình vì tổ quốc hoặc vì nghĩa lớn cần phấn đấu.

Dũng Cảm

2

Hữu Nghị

Hữu Nghị: Có ý nghĩa gặp gỡ, quan hệ giao lưu thân thiện tốt đẹp.

Hữu Nghị

3

Hy Vọng

Hy Vọng: Là điều mong muốn ở thì tương lai tốt đẹp như ý muốn.

Hy Vọng

4

Như Ý

Như Ý: Là mong muốn của con người, từ tập thể, cá nhân đến xã hội và đất nước, nội dung là làm việc gì cũng được như ý muốn, ý nguyện.

Như Ý

5

Quyết Tâm

Quyết Tâm: Là ý chí, nghị lực cao cả để thực hiện bằng được mục đích và việc làm đã xác định ra.

Quyết Tâm

6

Tiến Bộ

Tiến Bộ: Là tiến hơn trước, nhanh hơn trước, chất lượng, kết quả hơn trước.

Tiến Bộ

7

Tiền Phong

Tiền Phong: Có ý nghĩa gương mẫu, đi đầu, đi trước.

Tiền Phong

8

Trung Dũng

Trung Dũng: Là từ nói về sự trung thành của con người với tổ quốc, Nhân dân và gia đình, bạn bè cùng chung một mục đích, lý tưởng, đồng thời để tỏ rõ lòng trung thành thì phải dũng cảm chiến đấu.

Trung Dũng

9

Thái Bình

Thái Bình: Là từ dùng để chỉ trạng thái yên ổn, không có loạn lạc, chiến tranh.

Thái Bình

10

Thái Lai

Thái Lai: Là từ dùng để chỉ tượng trưng cho sự hanh thông, sự lặp lại niềm vui, may mắn.

Thái Lai

11

Tương Lai

Tương Lai: Là kết quả, việc làm dự kiến sau giai đoạn hiện tại.

Tương Lai

III. TÊN DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA, DANH LAM THẮNG CẢNH CỦA TỈNH THANH HÓA: 53 di tích, danh lam thắng cảnh

1. Tên di tích lịch sử - văn hóa đã được xếp hạng di tích cấp quốc gia trở lên: 35 di tích

STT

Tên di tích

Tóm tắt lý lịch

Tên dùng

1

Bảng Môn Đình

Bảng Môn Đình thuộc xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa. Bảng Môn Đình nghĩa là cửa vào của các nhà khoa bảng. Bảng Môn Đình không chỉ là nơi thờ Thành Hoàng làng mà còn là nơi quy tụ, vinh danh những con người đỗ đạt thành tài của làng. Bảng Môn Đình trở thành biểu tượng sự hiếu học của người Hoằng Lộc, được nhiều nơi biết đến. Năm 1990, Bảng Môn Đình đã được xếp hạng di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật quốc gia.

Bảng Môn Đình

2

Chùa Cách

Chùa Cách (chùa Ngọc Đới) thuộc địa phận làng Cách, xã Tuy Lộc, huyện Hậu Lộc. Chùa Cách là ngôi chùa cổ, còn lưu giữ số lượng tượng phong phú đa dạng về các loại hình, bao gồm 39 tượng gỗ, 4 thổ tượng và nhiều đồ thờ mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII-XIX. Chùa được Bộ Văn hóa, Thể thao Du lịch xếp hạng Di tích Kiến trúc Nghệ thuật quốc gia năm 2011.

Chùa Cách

3

Chùa Hình Sơn

Chùa Hinh Sơn thuộc địa bàn phường An Hưng, thành phố Thanh Hóa. Chùa thuộc cụm di tích nghệ thuật và thắng cảnh quốc gia núi An Hoạch (núi Nhồi), chùa được tạo ra trong hang núi An Hoạch. Trên vách đá trước cửa chùa khắc ba chữ “Hinh Sơn động”, cấu trúc chùa gồm Tiền đường, Trung đường và Hậu cung. Trong chùa còn lưu giữ tấm bia ma nhai “Hinh Sơn cổ tự bi” được khắc niên hiệu Kiến Phúc (1884) ghi về việc tu tạo chùa. Chùa thờ Phật và Thánh Mẫu. Hậu cung có tượng Khổng Minh được khắc trực tiếp vào vách hang. Di tích được xếp hạng quốc gia năm 1992.

Hinh Sơn

4

Chùa Hoa Long

Chùa Hoa Long nằm ở thôn Trung, xã Vĩnh Thịnh, huyện Vĩnh Lộc. Chùa còn được gọi là chùa Bản Thủy. Chùa được xây dựng từ thời Trần. Khi khởi dựng, chùa quay mặt hướng Bắc, nằm bên cạnh hồ sen, bố cục theo hình chữ nhị gồm hai tòa nhà Tiền đường và Hậu cung liên kết với nhau tạo thành một khối thống nhất. Bên trái phía trước chùa là một dãy nhà ngang dùng làm nơi cho sư trụ trì và khách thập phương nghỉ chân. Hiện nay, chùa Hoa Long còn lưu giữ được đôi câu đối ghi lại sự kiện khởi dựng chùa thuở trước. Cụm di tích chùa Hoa Long - đền thờ Trần Khát Chân được xếp hạng di tích lịch sử quốc gia năm 2004.

Chùa Hoa Long

5

Chùa Hương Nghiêm

Chùa Hương Nghiêm (tức Hương Nghiêm tự) ở thôn 3, xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa. Chùa được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia từ năm 1990, là một trong số ít ngôi chùa có lịch sử ra đời vào loại sớm nhất ở Thanh Hóa. Thời Nguyễn nơi đây thuộc xã Phủ Lý, tổng Vận Quy, huyện Đông Sơn, phủ Thiệu Hóa. Vùng đất này, từ Đinh - Tiền Lê - Lý - Trần thường gọi là giáp Bối Lý.

Hương Nghiêm

6

Chùa Kênh

Di tích lịch sử bia Chùa Kênh (Hưng Phúc Tự) thuộc xã Quảng Hùng, thành phố Sầm Sơn là di tích lịch sử quốc gia năm 1995. Chùa Kênh được khởi công năm 1264, xây dựng hoàn chỉnh năm 1326. Đây là một công trình kiến trúc độc đáo, gắn liền với một thời kỳ phát triển rực rỡ của đạo Phật. Tấm bia đá Chùa Kênh là một công trình điêu khắc nghệ thuật, minh chứng cho những chiến công vang dội của quân và dân Sầm Sơn - Quảng Xương, trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông thế kỉ XIII.

Chùa Kênh

7

Chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh

Chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh nằm trên địa bàn làng Duy Tinh, xã Thuần Lộc (trước đó là xã Văn Lộc). Chùa được xây dựng từ thời Lý và được Bộ Văn hóa, Thể thao xếp hạng Di tích Kiến trúc Nghệ thuật quốc gia năm 1990.

Sùng Nghiêm

8

Chùa Tường Vân

Chùa Tường Vân hay còn gọi là chùa Giáng thuộc khu phố 3, thị trấn Vĩnh Lộc. Hơn 600 năm tồn tại, gắn bó với vùng đất từng là kinh đô nước Đại Ngu, vương triều nhà Hồ (1400 - 1407), chùa Tường Vân là một trong những công trình kiến trúc quan trọng có giá trị nổi bật về ý nghĩa văn hóa cũng như lịch sử. Khi xây thành Tây Đô, Hồ Quý Ly đã cho làm một con đường từ cửa Nam tới chùa Tường Vân, đàn Nam Giao (đường Hoa Nhai hay đường Hoàng Gia) để các thân vương, quý tộc đến chùa lễ Phật cầu phúc cho chúng sinh, vì vậy chùa Tường Vân được coi là ngôi chùa quốc tự của vương triều Hồ. Được xếp hạng di tích lịch sử quốc gia năm 2009.

Tường Vân

9

Chùa Vích

Chùa Vích thuộc xã Hải Lộc, huyện Hậu Lộc. Chùa được xếp hạng di tích cách mạng cấp tỉnh 1994, di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia năm 2008.

Chùa Vích

10

Đền Am Tiên

Đền Am Tiên là một ngôi đền nằm ở núi Nưa, phố Cổ Định, thị trấn Nưa, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cao 585 m so với mực nước biển. Ngôi đền thuộc quần thể di tích lịch sử Quốc gia Am Tiên, trong đó bao gồm núi Nưa, Đền Nưa và Am Tiên, có tổng diện tích 100 ha. Nơi này là nơi khởi điểm dấy binh của Triệu Thị Trinh (Bà Triệu) cùng với anh trai là Triệu Quốc Đạt khởi nghĩa chống Đông Ngô. Vào ngày 27 tháng 3 năm 2009, quần thể di tích lịch sử Quốc gia Am Tiên đã được nhà nước xếp hạng di tích thắng cảnh cấp quốc gia. Đây là địa danh nổi tiếng được nhiều người biết đến.

Am Tiên

11

Đền An Lạc

Di tích lịch sử Đền An Lạc thuộc xã Hoằng Hải, huyện Hoằng Hóa, đây là nơi thờ vị Khai quốc công thần Lê Lai “Suy trung đồng đức, hiệp mưu, Bảo chính Lũng Nhai công thần” và các vị công thần thuộc dòng tộc của Lê Lai như: Hiệp Quận công Lê Lạn (em của Lê Lai); 3 người con Lê Lai (Thiếu úy Lê Lư, Thái bảo Lê Lộ, Thái úy Trung quốc công Lê Lâm) và Tể tướng Lê Niệm (con Lê Lâm, cháu Lê Lai). Di tích đã được xếp hạng quốc gia năm 2001.

An Lạc

12

Đền Cây Vải

Đền Cây Vải thuộc Khu di tích lịch sử và thắng cảnh Bỉm Sơn (bao gồm: Đèo Ba Dội, động Cửa Buồng, đình làng Gạo, đồi Ông, đền Sòng Sơn - Chín Giếng, đền Cây Vải và hồ Cánh Chim). Di tích hiện nay thuộc phường Lam Sơn, thị xã Bỉm Sơn. Tương truyền, đền thờ một người phụ nữ (gọi là bà Giếng) - được giao nhiệm vụ mở quán hàng ở gốc vải to để làm nhiệm vụ cảnh giới cho quân của Quang Trung khi đánh quân Thanh. Đền Cây Vải được xếp hạng là di tích quốc gia năm 1993.

Cây Vải

13

Đền Đàm Lê

Đền Đàm Lê thuộc phường Đông Lĩnh, thành phố Thanh Hóa, di tích thờ Thái tổ Cao Hoàng đế và các Quận công họ Đàm. Kiến trúc di tích hình chữ Nhị gồm Tiền đường và Hậu cung. Hai bên Tiền đường là nhà Tả vu và Hữu vu. Di tích được xếp hạng quốc gia năm 1993.

Đàm Lê

14

Đền Hổ Bái

Di tích kiến trúc nghệ thuật Đền Hổ Bái thuộc xã Yên Bái, huyện Thiệu Yên (nay là huyện Yên Định), là nơi thờ vị Lạc Hầu thời Hùng Vương dựng nước trong lịch sử Việt Nam. Đây là một di tích có giá trị nghiên cứu khoa học và giáo dục ý thức về cội nguồn dân tộc một cách sâu sắc. Di tích được xếp hạng quốc gia năm 1993.

Hổ Bái

15

Đền Thanh Xuyên

Đền Thanh Xuyên thuộc xã Hải Thanh, huyện Tĩnh Gia, nay là thị xã Nghi Sơn. Đền Thanh Xuyên thuộc cụm di tích kiến trúc nghệ thuật và thắng cảnh Lạch Bạng (Đền Lạch Bạng, Thanh Xuyên, Du Xuyên và chùa Đót Tiên), là nơi thờ Thần hoàng - Người họ Nguyễn có công lập làng, lập ấp. Sự tích của Thần hoàng Thanh Xuyên được ghi lại trong tấm bia dựng ở đền. Di tích được xếp hạng quốc gia năm 1990.

Thanh Xuyên

16

Đền thờ Đề Lĩnh

Đền thờ Đề Lĩnh thuộc thôn Trung, xã Lương Niệm, phủ Quảng Xương, nay là tổ dân phố Khanh Tiến, phường Trung Sơn, thành phố Sầm Sơn. Ngôi đền nằm trên gò đất cao, rìa làng thờ thần Hoàng làng Lương Trung: Đường Công Quang Lộc, dân trong vùng thường gọi là Đề Lĩnh, ông là người làng Bồng Báo thuộc xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá ngày nay. Đền thờ Đề Lĩnh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di tích lịch sử quốc gia năm 1993.

Đề Lĩnh

17

Đền thờ Tây Phương Đại tướng quân

Đền thờ Tây phương Đại tướng quân (còn có tên gọi là đền Cá Lập) thuộc xã Quảng Tiến, thị xã Sầm Sơn (nay là phường Quảng Tiến, thành phố Sầm Sơn). Cá Lập là tên đền và cũng là tên làng. Ngoài ra còn có tên gọi là làng Trấp, đền thờ một vị tướng làm Thành Hoàng - Trần Đức và mười vị phúc thần khác, các vị đều là người có công với dân với nước, khi chết được làm thần. Để tưởng nhớ công lao to lớn của tướng quân Trần Đức, các triều đại phong kiến Việt Nam truy phong ngài là: Tây phương Đại tướng quân và cho lập đền thờ ông ngay tại quê nhà - thôn Cá Lập. Di tích được xếp hạng là di tích lịch sử quốc gia năm 1999.

Tây Phương

18

Đình Phương Chính

Đình Phương Chính thuộc phường Đông Lĩnh thành phố Thanh Hóa, đình thờ Thành Hoàng làng. Kiến trúc mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVIII có cấu trúc 2 tầng 8 mái, mỗi góc 4 cột bố trí đều nhau trên mặt bằng hình vuông. Di tích được xếp hạng quốc gia năm 1993.

Phương Chính

19

Đình Sét

Di tích kiến trúc Đình làng Sét thuộc xã Định Hải, huyện Thiệu Yên (nay là huyện Yên Định), là nơi thờ Đức Thành Hoàng là ông họ Trương gồm: Trương Cảnh Phúc, Trương Đình Lễ, Trương Đình Chinh có công phò vua Lê và chúa Trịnh Kiểm (1545-1569), Trịnh Tùng (1570-1623). Ngoài ra các ông còn có công giúp làng mở mang khai hóa thành lập làng. Di tích được xếp hạng quốc gia năm 1995.

Đình Sét

20

Đình Thượng

Đình Thượng thuộc Cụm di tích nghệ thuật và thắng cảnh quốc gia núi An Hoạch (núi Nhồi), đình nằm trên địa bàn phường An Hưng, thành phố Thanh Hóa. Đình là nơi thờ Thành Hoàng - Ông tổ nghề đục đá của làng An Hoạch. Đình Thượng cấu trúc theo kiểu chữ Đinh gồm Tiền đình và Hậu cung. Sân đình được bài trí tượng Võ sĩ, tượng quan hầu, voi đá, ngựa đá và hương án đá. Di tích được xếp hạng quốc gia năm 1992.

Đình Thượng

21

Đình Trung

Đình Trung nằm trên địa bàn xã Hà Yên (nay là xã Yên Dương), huyện Hà Trung. Đình được xây dựng vào thế kỷ XVII theo kiến trúc truyền thống và là một trong những di tích khá nguyên vẹn về kiến trúc điêu khắc. Đình làng thờ Thành Hoàng làng Tô Hiến Thành và là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa lâu đời của người dân địa phương. Hằng năm vào ngày 17, 18 tháng giêng Âm lịch, Nhân dân trong làng tổ chức lễ hội truyền thống để tỏ lòng thành kính với vị Thành Hoàng làng. Năm 2004, đình làng Đình Trung được xếp hạng Di tích cấp Quốc gia.

Đình Trung

22

Đông Đoài

Đông Đoài thuộc xã Nga Thạch, huyện Nga Sơn, đây là nơi thờ 3 vị thần là: Du Dịch Đại vương, Càn Thiên công chúa và Chiêu Nghi công chúa (tên thật của bà là Mai Thị Ngọc Tiến). Di tích được xếp hạng quốc gia năm 1994.

Đông Đoài

23

Đồng Ngầm

Đồng Ngầm thuộc xã Đông Tiến, huyện Đông Sơn. Di chỉ khảo cổ học nằm quanh chân núi Bạch Thạch và núi Đào Sơn (thuộc làng Nhuận Thạch). Di chỉ khảo cổ học được phát hiện và đào thám sát năm 1975, từ cuối năm 1979 - 1980 khai quật khảo cổ, kết quả cho thấy di tích có 5 giai đoạn văn hóa phát triển liên tục tương đương với các giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn điển hình và Đông Sơn muộn. Hiện vật chủ yếu là đồ đá và đồ gốm có niên đại cách ngày nay khoảng 3.500 năm. Di chỉ khảo cổ học Đồng Ngầm (thuộc Cụm di tích lịch sử và thắng cảnh Đông Tiến) được xếp hạng di tích quốc gia năm 1993.

Đồng Ngầm

24

Đồng Vưng

Đồng Vưng thuộc xã Đông Tiến, huyện Đông Sơn. Di chỉ khảo cổ học Đồng Vưng nằm quanh chân núi Bạch Thạch và núi Đào Sơn (thuộc làng Nhuận Thạch). Di chỉ được phát hiện, đào thám sát năm 1975, từ cuối năm 1979 - 1980 khai quật khảo cổ, kết quả cho thấy di tích có 5 giai đoạn văn hóa phát triển liên tục tương đương với các giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn điển hình và Đông Sơn muộn. Hiện vật chủ yếu là đồ đá và đồ gốm có niên đại cách ngày nay khoảng 3.500 năm. Di chỉ khảo cổ học Đồng Vưng (thuộc Cụm di tích lịch sử và thắng cảnh Đông Tiến) được xếp hạng di tích quốc gia năm 1993.

Đồng Vưng

25

Đường Thiên Lý

Đường Thiên Lý thuộc phường Bắc Sơn, thị xã Bỉm Sơn, thuộc khu di tích và thắng cảnh quốc gia Bỉm Sơn. Đường Thiên Lý nối giữa Ninh Bình và Thanh Hóa đi qua đèo Ba Dội và động Cửa Buồng, ranh giới giữa hai miền Bắc và miền Trung. Di tích đường Thiên Lý thuộc quần thể phòng tuyến Tam Điệp, con đường Thiên Lý quanh co uốn lượn qua bãi lau lách, hai bên đường là dãy núi đá sừng sững gợi lại những hình ảnh sống động và bước đường hành quân thần tốc của những người anh hùng áo vải Tây Sơn.

Thiên Lý

26

Hang chùa Quan Thánh

Hang Chùa Quan Thánh thuộc cụm di tích nghệ thuật và thắng cảnh quốc gia núi An Hoạch (núi Nhồi), di tích nằm trên địa bàn phường An Hưng, thành phố Thanh Hóa. Chùa do Lê Đình Truyền người sở tại dựng vào năm Hoằng Định thứ 10 (1610), Trấn thủ Thanh Hóa là Nguyễn Trung Nghĩa tu bổ. Kiến trúc chùa nằm trong lòng hang. Nơi đây thờ tượng Quan Vũ, Chu Xương đời Hán Trung Quốc. Trong chùa có hệ thống các bia đá và các pho tượng khắc trên vách đá. Di tích được xếp hạng quốc gia năm 1992.

Quan Thánh

27

Hang Treo

Hang Treo là tên gọi hang đá thuộc xã Thành Tâm, huyện Thạch Thành, nơi thành lập Đội du kích Ngọc Trạo - Tiền thân của lực lượng vũ trang Thanh Hóa. Hiện nay, Hang Treo là một di tích thuộc cụm di tích Chiến khu Ngọc Trạo được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di tích lịch sử quốc gia năm 1994.

Hang Treo

28

Lăng Hoàng Khảo

Lăng Hoàng Khảo thuộc làng Trung Lập, xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân, đây là nơi Đức Hoàng Khảo nhà Tiền Lê yên nghỉ. Ngài họ Lê, húy Mịch là thân phụ Hoàng đế Lê Đại Hành (Lê Hoàn). Lăng được tôn tạo lại có diện tích 250m2, mộ được xây bằng đá nguyên khối, tường bao chạm hoa chanh, trụ gắn hoa sen, lưỡng hổ chầu uy nghiêm. Đây cũng là một trong các địa điểm của quần thể di tích Lê Hoàn đã được xếp hạng di tích quốc gia năm 1990.

Hoàng Khảo

29

Lăng Quốc Mẫu

Lăng Quốc Mẫu thuộc làng Yên Năng, xã Phú Yên (nay là xã Xuân Phú), huyện Thọ Xuân, là nơi Hoàng Thái hậu nhà Tiền Lê yên nghỉ - Người họ Đặng, húy Sen là thân mẫu Hoàng đế Lê Đại Hành (Lê Hoàn). Khu lăng mộ được tôn tạo lại trong khuôn viên cũ với tổng diện tích 1.714,3m2. Mộ Hoàng Thái hậu được làm bằng đá nguyên khối có tường bao quanh, chạm khắc hoa chanh với nghê chầu, hổ phục, hoa sen hàm tiếu. Di tích đã được xếp hạng cấp quốc gia năm 1990.

Quốc Mẫu

30

Nghè Vẹt

Nghè Vẹt thuộc xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc. Nghè Vẹt là nơi thờ 10 đời chúa Trịnh, gồm: Trịnh Khanh Vương Trịnh Kiểm, Bình An Vương Trịnh Tùng, Thành Đô Vương Trịnh Tráng, Tây Đô Vương Trịnh Tạc, Bình Vương Trịnh Căn, An Đô Vương Trịnh Cương, Uy Nam Vương Trịnh Giang, Minh Đô Vương Trịnh Doanh, Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm, Đoan Đô Vương Trịnh Khải. Di tích có kiểu kiến trúc thế kỷ XVII, hình “chuôi vồ”. Nghè Vẹt được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa quốc gia năm 1995.

Nghè Vẹt

31

Núi Bạch Thạch

Núi Bạch Thạch hay còn gọi là Núi Chiểu, xã Đông Tiến, huyện Đông Sơn, là ngọn núi đá đẹp nổi tiếng xứ Thanh. Theo sử sách ghi lại Núi Bạch Thạch có đền thờ Tướng quân Thiều Thốn - một tướng giỏi thời nhà Trần. Núi Bạch Thạch (thuộc khu di tích lịch sử và thắng cảnh Đông Tiến) được xếp hạng di tích quốc gia năm 1993.

Bạch Thạch

32

Núi Nấp

Di tích Núi Nấp, địa điểm thanh niên xung phong thuộc xã Đông Hưng, thành phố Thanh Hóa. Trong lịch sử, Núi Nấp là địa điểm trọng yếu của con đường vận chuyển hàng hóa, đạn dược chi viện cho tuyến miền Nam. Đây cũng là nơi diễn ra nhiều trận bắn phá ác liệt trong cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ. Tại đây ngày 11/5/1967, 13 cô gái thanh niên xung phong cùng với 4 công nhân đường sắt hy sinh tại chỗ, 27 nam, nữ thanh niên xung phong khác bị thương do trận dội bom của Mỹ lên Núi Nấp. Di tích được xếp hạng là di tích cấp quốc gia năm 1995.

Núi Nấp

33

Thạch Tuyền

Thạch Tuyền thuộc di tích nghệ thuật Đền Trung - đền Đông Đoài - chùa Thạch Tuyền, thôn Hậu Trạch, xã Nga Thạch, huyện Nga Sơn, là ngôi chùa cổ được xây dựng vào năm Cảnh Hưng (1740-1786) trùng tu năm 1936. Trong chùa còn lưu giữ 10 pho tượng Phật cổ có cùng thời gian dựng chùa. Chùa Thạch Tuyền, đền Trung, đền Đông Đoài đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di tích quốc gia năm 1994.

Thạch Tuyền

34

Từ đường Phúc Quang

Di tích lịch sử Từ đường Phúc Quang thuộc xã Định Hòa, huyện Thiệu Yên. Từ đường Phúc Quang là nơi thờ các vị Tổ họ Ngô Đồng Phang và các vị khai quốc công thần triều Lê là Ngô Kinh và Ngô Từ. Di tích được xếp hạng quốc gia năm 1995 và được cấp đổi năm 2016.

Phúc Quang

35

Vườn Trầu

Vườn Trầu thuộc Cụm di tích cách mạng Xuân Minh, huyện Thọ Xuân, là khu vườn mà các Đảng viên Tân Việt Xuân Minh tổ chức làm kinh tế (như trồng trầu và nuôi gà). Đồng thời ở đó có một cuộc gặp quan trọng của các đồng chí lãnh đạo Đảng bộ Thanh Hóa họp để kiểm điểm tình hình và cử đồng chí Nguyễn Xuân Thúy đi Nghệ An để nhận chỉ thị của xứ ủy để chuẩn bị cho cuộc đấu tranh ủng hộ Xô Viết - Nghệ Tĩnh. Vườn Trầu cũng là điểm liên lạc bắt mối của nhiều cán bộ cách mạng. Di tích được xếp hạng lịch sử cách mạng quốc gia năm 1993.

Vườn Trầu

2. Tên danh lam thắng cảnh có giá trị tiêu biểu của tỉnh Thanh Hóa: 18 danh lam thắng cảnh

STT

Tên danh lam thắng cảnh

Tóm tắt lý lịch

Tên dùng

1

Chùa Am Các

Chùa Am Các: Tên một ngôi chùa, thuộc xã Định Hải, thị xã Nghi Sơn được xếp hạng di tích cấp tỉnh năm 2013. Chùa tọa lạc trên núi Các, dân địa phương nhiều người gọi là “Cát”, bởi cát, đất và đá trên núi quyện với nhau, khiến địa hình và khí hậu nơi đây rất thích hợp phát triển rừng, với hàng trăm hec-ta xanh tốt rừng tái sinh còn được bảo vệ. Chùa phong cảnh hữu tình, phía chân đền là hồ Hao Hao, phía trước là đảo Nghi Sơn. Đây là điểm di tích danh thắng thu hút đông đảo Nhân dân và du khách thập phương đến thăm quan.

Am Các

2

Danh thắng Hàn Sơn

Di tích đền Hàn Sơn là tên một quần thể di tích nổi tiếng, có ảnh hưởng tín ngưỡng rộng, được Nhân dân trong và ngoài tỉnh biết đến, hiện Hàn Sơn nằm trên địa bàn xã Hà Sơn, huyện Hà Trung - di tích đền Hàn Sơn được xếp hạng Di tích cấp tỉnh.

Hàn Sơn

Danh thắng Hàn Sơn[213], là danh thắng nổi tiếng, thuộc xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, là một trong năm điểm di tích thuộc cụm di tích thắng cảnh Phong Mục đã được công nhận di tích cấp tỉnh. Nơi đây được ví như chốn “Bồng lai tiên cảnh”, thiên nhiên hùng vĩ, sông núi hữu tình hoa thơm trái ngọt. Đây là địa danh được nhiều người biết đến.

3

Đình Làng Hồ

Công trình kiến trúc nghệ thuật Đình Làng Hồ thuộc xã Thọ Thanh, huyện Thường Xuân được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh theo Quyết định số 3987/QĐ-UBND ngày 12/11/2013.

Làng Hồ

4

Động An Khương

Động An Khương thuộc xã Yên Khương, huyện Lang Chánh, tên có từ thời Lê, thời Nguyễn thuộc tổng Yên Thọ, châu Lương Chính.

An Khương

5

Động Cửa Buồng

Động Cửa Buồng thuộc Khu di tích lịch sử và thắng cảnh Bỉm Sơn (bao gồm: Đèo Ba Dội, động Cửa Buồng, đình làng Gạo, đồi Ông, đền Sòng Sơn - Chín Giếng, đền Cây Vải và hồ Cánh Chim). Động Cửa Buồng thuộc địa phận phường Lam Sơn, thị xã Bỉm Sơn. Quần thể di tích danh thắng động Cửa Buồng gồm núi Cửa Buồng, động Đào Nguyên và đường Thiên Lý, nằm giữa núi Tượng Sơn và Điểu Sơn. Đây là địa điểm nhiều danh nhân đã từng đặt chân đến và để lại dấu ấn của mình như Nguyễn Trãi, Hải Thượng Lãn Ông... Động Cửa Buồng được xếp hạng là thắng cảnh quốc gia năm 1993.

Cửa Buồng

6

Động Phủ Thông

Khu di tích danh lam thắng cảnh: Chùa Tiên, hồ Đồng Vụa, động Phủ Thông thuộc xã Nga An, huyện Nga Sơn, đây là một quần thể thắng cảnh nổi tiếng ở xứ Thanh.

Động Phủ Thông là một hang động trong một quả núi sót đứng độc lập; bên trong động, Nhân dân đã đưa hệ thống thờ mẫu vào thờ. Di tích được xếp hạng là danh lam thắng cảnh quốc gia năm 2002.

Phủ Thông

7

Hồ Cánh Chim

Hồ Cánh Chim thuộc khu di tích lịch sử và thắng cảnh Bỉm Sơn (bao gồm: Đèo Ba Dội, động Cửa Buồng, đình làng Gạo, đồi Ông, đền Sòng Sơn - Chín Giếng, đền Cây Vải và hồ Cánh Chim). Hồ Cánh Chim thuộc phường Lam Sơn, thị xã Bỉm Sơn. Sở dĩ có tên gọi là hồ Cánh Chim bởi vì khi đứng trên đèo Ba Dội nhìn xuống thì hồ mang hình dáng cánh chim bay vút lên cao. Hồ Cánh Chim mang trong mình nét đẹp hoang sơ, thơ mộng. Hồ Cánh Chim được xếp hạng là thắng cảnh cấp quốc gia năm 1993.

Cánh Chim

8

Hồ Hao Hao

Hồ Hao Hao thuộc thị xã Nghi Sơn, tên một hồ nước lớn nằm dưới chân núi Am Các, có trữ lượng nước lớn quanh năm không bao giờ cạn; đây là địa điểm dẫn lên chùa Am Các; hồ Hao Hao cùng với di tích Am Các và những làng Việt cổ dưới chân núi đã tạo nên một quần thể danh lam thắng cảnh đẹp ở vùng đất phía Nam tỉnh Thanh Hóa. Quần thể di tích địa điểm chùa Am Các, núi Am Các, hồ Hao Hao đã được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa xếp hạng là di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh tại Quyết định số 1533/QĐ-UBND ngày 27/4/2018.

Hao Hao

9

Hòn Vọng Phu

Thắng cảnh Hòn Vọng Phu thuộc cụm di tích nghệ thuật và thắng cảnh quốc gia núi An Hoạch (núi Nhồi), núi nằm trên địa bàn phường An Hưng, thành phố Thanh Hóa. Núi là một khối đá giống hình một người phụ nữ đang bồng con trông ra biển. Hòn Vọng Phu còn có tên là Vọng phu thạch. Niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 46 (1785), Mãn Quận công Lê Trung Nghĩa đã cho tu sửa. Niên hiệu Thành Thái (1890), Tổng đốc Thanh Hóa Hà Đình Nguyễn Thuật đã cho khắc 4 chữ Hán lên thân của khối đá với nội dung Kiệt nhiên trung trĩ. Núi Vọng Phu được xếp hạng thắng cảnh quốc gia năm 1992.

Vọng Phu

10

Núi Bàn A

Núi Bàn A thuộc phường Thiệu Khánh, thành phố Thanh Hóa. Một di tích văn hóa danh thắng đặc biệt nổi tiếng khắp các miền trong cả nước đã được sử sách cũ ghi chép, ca ngợi. Danh thắng được Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin (nay là Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích thắng cảnh cấp tỉnh năm 1989 và được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh cấp bằng xếp hạng di tích thắng cảnh cấp tỉnh năm 2011.

Bàn A

11

Núi Đào Sơn

Núi Đào Sơn thuộc xã Đông Tiến, huyện Đông Sơn, là ngọn núi đá đẹp nổi tiếng xứ Thanh. Trên đỉnh ngọn núi Đào Sơn có lăng mộ của cụ Thiều Kim Tinh, tương truyền gọi là Phát Tích Lăng, là Thủy tổ của họ Thiều ở tỉnh Thanh Hóa. Dưới chân núi có mộ tướng quân Thiều Thốn và vợ của ông là công chúa Trần Thị Chiêu. Đào Sơn (thuộc khu di tích lịch sử và thắng cảnh Đông Tiến) được xếp hạng quốc gia năm 1993.

Đào Sơn

12

Núi Đồi Ông

Núi Đồi Ông thuộc phường Lam Sơn, thị xã Bỉm Sơn, thuộc khu di tích lịch sử và thắng cảnh Bỉm Sơn (bao gồm: Đèo Ba Dội, động Cửa Buồng, đình làng Gạo, đồi Ông, đền Sòng Sơn - Chín Giếng, đền Cây Vải và hồ Cánh Chim). Núi Đồi Ông là một trong 3 ngọn núi gồm đồi Ông Đùng, gò Bia và núi Đồi Ông. Tương truyền 3 ngọn núi là nơi quân Tây Sơn sử dụng làm nơi huấn luyện pháo binh. Núi Đồi Ông là nơi đặt bản doanh của tướng quân Đại tư đồ Ngô Văn Sở khi rút quân từ Thăng Long về đây. Ông là một võ tướng tài cao, đức trọng, có công lớn giúp vua Quang Trung - Nguyễn Huệ chống quân Thanh. Khi ông mất Nhân dân nơi đây lập một am miếu thờ ông trên sườn đồi để tưởng nhớ ân huệ của ông. Núi Đồi Ông được xếp hạng là danh thắng quốc gia năm 1993.

Đồi Ông

13

Núi Gai

Núi Gai (còn gọi là Tượng Sơn) thuộc huyện Hậu Lộc. Núi trải dài 1km, hướng Tây - Đông, là ranh giới giữa các xã Triệu Lộc, Tiến Lộc (Hậu Lộc) với xã Hoằng Trung, Hoằng Trinh (Hoằng Hóa). Núi gai là ngọn núi có di tích đền thờ Bà Triệu - Di tích quốc gia đặc biệt.

Núi Gai; Tượng Sơn

14

Núi Ngưỡng Sơn

Núi Ngưỡng Sơn thuộc xã Hà Ngọc, huyện Hà Trung, đây là danh thắng nổi tiếng trong cả nước gắn liền với ngôi chùa nổi tiếng thời Lý là chùa Linh Xứng. Thắng cảnh núi Ngưỡng Sơn và địa điểm chùa Linh Xứng được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa công nhận di tích lịch sử văn hóa - thắng cảnh cấp tỉnh tại Quyết định số 166/QĐ-UBND ngày 12/01/2006.

Ngưỡng Sơn

15

Núi Tùng Sơn

Núi Tùng Sơn thuộc huyện Hậu Lộc, là dãy đồi núi dài hơn 2 km, chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Tương truyền, đây là nơi Bà Triệu anh dũng hy sinh. Trên đỉnh núi có lăng mộ Bà Triệu, chân núi có mộ 3 ông tướng họ Lý. Di tích đã được xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt.

Tùng Sơn

16

Núi Tượng Sơn

Núi Tượng Sơn thuộc xã Hà Tiến, huyện Hà Trung, đây là quần thể núi gồm 7 ngọn núi và các thung lũng liên kết với nhau trong một không gian rộng 112 ha tạo thành hình thế một đôi voi phục. Danh thắng được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh xếp hạng di tích thắng cảnh cấp tỉnh năm 2010.

Tượng Sơn

17

Quần thể Động Trường Lâm

Quần thể Động Trường Lâm thuộc xã Trường Lâm, thị xã Nghi Sơn, là quần thể danh lam thắng cảnh được tạo bởi hang động tự nhiên trong dãy núi đá, nằm ở phía cực Nam của tỉnh Thanh Hóa và tiếp giáp với huyện Quỳnh Lưu (Nghệ An). Quần thể động Trường Lâm được ví như là “Bồng lai tiên cảnh” gồm có: Động Ngọc Hoàng, động Tiên và núi Ngọc Nữ. Vẻ đẹp của danh thắng là do thiên nhiên tạo ra. Quần thể động Trường Lâm được Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin (nay là Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích danh lam thắng cảnh tại Quyết định số 287/VHQĐ ngày 15/11/1993 và được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa cấp bằng xếp hạng di tích thắng cảnh cấp tỉnh tại Quyết định số 2329/QĐ-UBND ngày 19/7/2011.

Trường Lâm

18

Thác Hón Lối

Thác Hón Lối thuộc xã Giao Thiện, huyện Lang Chánh. Đây là thác tự nhiên, khu vực thác Hón Lối chủ yếu là rừng nguyên sinh với các thảm thực vật, động vật phong phú. Đây chính là một địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn bởi khung cảnh sơn thủy hữu tình, khí hậu trong lành, mát mẻ quanh năm. Thác Hón Lối được công nhận di tích danh lam thắng cảnh cấp tỉnh năm 2019.

Hón Lối

IV. TÊN PHONG TRÀO CÁCH MẠNG (Sự kiện lịch sử, chiến thắng chống xâm Iược có giá trị tiêu biểu của tỉnh Thanh Hóa): 20 phong trào cách mạng, sự kiện lịch sử, chiến thắng chống xâm lược.

STT

Tên sự kiện

Tóm tắt lý lịch

Tên dùng

Ghi chú

1

Ba mươi tháng tám (30/8)

Ngày 30 tháng 8 năm 1948 là ngày thành lập chi bộ Như Xuân tại nhà đồng chí Đỗ Kế Sức (nay thuộc thị trấn Bến Sung) do đồng chí Lê Đình Sằn, Thường vụ Tỉnh ủy, phụ trách miền Tây về dự và chỉ đạo, đồng chí Nguyễn Xuân Liêm được chỉ định làm Bí thư.

Ba mươi tháng tám (30/8)

 

2

Chi bộ Cố Gắng

Chi bộ Cố Gắng: Ngày 02/9/1947, ngày thành lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên - tiền thân của Đảng bộ thành phố Sầm Sơn (tại khu phố Trung Chính, phường Quảng Cư, thành phố Sầm Sơn) và lấy tên là Chi bộ Cố Gắng.

Cố Gắng

 

3

Đồng Thanh

Đồng Thanh: Thực hiện chủ trương của Trung ương và Quân ủy khu 4 quyết tâm bảo vệ Thanh Hóa, năm 1947, huyện ủy Đông Sơn quyết định thành lập khu du kích Đồng Thanh gồm 4 thôn: Đại Đồng (nay là thị trấn Rừng Thông), Thanh Oai, Viên Khê, Tuyên Hóa (nay là xã Đông Khê). Chiến khu Đồng Thanh được hình thành là kết quả xây dựng lực lượng chiến tranh Nhân dân của Huyện ủy Đông Sơn chuẩn bị sẵn sàng đánh địch tại chỗ và chi viện nơi khác nếu cần.

Đồng Thanh

 

4

Hai mươi hai tháng tư (22/4)

Ngày 22/4/2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 933/NQ-UBTVQH14 về việc “Thành lập thị xã Nghi Sơn và các phường thuộc thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Thị xã Nghi Sơn giáp các huyện Như Thanh, Nông Cống, Quảng Xương, tỉnh Nghệ An và biển Đông. Cùng với việc thành lập thị xã Nghi Sơn là việc thành lập 16 phường thuộc thị xã. Như vậy, sau khi thành lập thị xã Nghi Sơn có 31 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 16 phường và 15 xã.

Hai mươi hai tháng tư (22/4)

 

5

Hai mươi mốt tháng tám (21/8)

Ngày hai mươi mốt tháng tám (21/8/1945): Là ngày huyện Nông Cống khởi nghĩa thành công giành chính quyền, xóa bỏ hoàn toàn chính quyền thực dân phong kiến, thành lập chính quyền cách mạng do ông Đặng Văn Tường làm chủ tịch Ủy ban nhân dân Cách mạng lâm thời huyện Nông Cống.

Hai mươi mốt tháng tám (21/8)

 

Ngày hai mươi mốt tháng tám (21/8/1945): Ngày diễn ra cuộc mít tinh và ra mắt Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện Thạch Thành. Sau cuộc biểu tình giành chính quyền ở huyện lỵ Kim Tân đêm 18 rạng ngày 19/8/1945 thắng lợi trọn vẹn. Ngày 21/8, cuộc mít tinh lớn toàn huyện được tổ chức tại huyện lỵ để ra mắt chính quyền mới. Tại cuộc mít tinh này, ông Nguyễn Trí Đạo thay mặt Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tuyên bố giải tán hệ thống chính quyền cũ, thành lập chính quyền cách mạng gồm 05 thành viên do ông Nguyễn Trí Đạo làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân Cách mạng lâm thời huyện Thạch Thành.

6

Hai mươi tám tháng ba (28/3)

Ngày 28/3/1950, được Tỉnh ủy Thanh Hóa ủy nhiệm, Ban Miền Tây ra quyết định: Thành lập Đảng bộ huyện Quan Hóa. Ban Chấp hành đảng bộ lâm thời gồm 05 đồng chí, do đồng chí Trần Đảng làm Bí thư, được giao trách nhiệm chuẩn bị mọi mặt cho Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ nhất.

Hai mươi tám tháng ba (28/3)

 

7

Hai mươi tháng tám (20/8)

Ngày 20/8/1945, hàng vạn quần chúng và tự vệ trong huyện tập trung tại sân vận động huyện chào đón Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện Tĩnh Gia. Đồng chí Lê Huy Tuần, Chủ tịch lâm thời huyện tuyên bố xóa bỏ chính quyền thực dân phong kiến, thành lập Ủy ban nhân dân lâm thời huyện. Quần chúng vui mừng phấn khởi, tin tưởng đồng thanh hô vang khẩu hiệu “Việt Nam độc lập muôn năm”, “Chính quyền cách mạng muôn năm”.

Hai mươi tháng tám (20/8)

 

8

Mùng hai tháng một (2/1)

Ngày 02-01-1946, tại nhà đồng chí Nguyễn Duy Phượng ở làng Thái Tượng, xã Tượng Sơn (nay thuộc huyện Nông Cống), Chi bộ Cộng sản huyện Tĩnh Gia được thành lập lại gồm 3 đồng chí: Lê Thế Sơn, Lương Đình Đạm và Nguyễn Duy Phượng, do đồng chí Lê Thế Sơn làm Bí thư Chi bộ.

Mùng hai tháng một (2/1)

 

9

Mùng hai tháng năm (2/5)

Ngày mùng 2 tháng 5 năm 1967 là ngày ký kết hợp tác đầu tiên giữa hai tỉnh Thanh Hóa - Hủa Phăn.

Mùng hai tháng năm (2/5)

 

10

Mùng mười tháng mười một (10/11)

Mùng mười tháng mười một (10/11/1945): Ngày thành lập Đảng bộ huyện Thạch Thành, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đông chí Đặng Văn Hỷ, Tỉnh ủy viên, Hội nghị Đảng bộ Vĩnh Thạch được triệu tập hợp tại nhà ông Ngô Du, phố Kim Tân, xã Minh Đạo. Hội nghị đã quyết định tách Đảng bộ Vĩnh Thạch, thành lập Chi bộ Đảng cộng sản Đông Dương ở Thạch Thành gồm 07 đồng chí, làm nhiệm vụ lãnh đạo phong trào toàn diện của huyện như huyện Đảng bộ. Đồng chí Phạm Văn Giản được chỉ định làm Bí thư Chi bộ, đồng thời làm Bí thư Huyện ủy lâm thời. Từ đó, Đảng lãnh đạo chính quyền bằng đường lối, chủ trương thông qua các kỳ Đại hội Đảng bộ.

Mùng mười tháng mười một (10/11)

 

11

Mùng mười tháng sáu (10/6)

Ngày mùng mười tháng sáu (10/6): Ngày thành lập Chi bộ đảng đầu tiên huyện Yên Định.

Mùng mười tháng sáu (10/6)

 

12

Mùng năm tháng tám (5/8)

Ngày 05/8/1964, vào lúc 14h15, giặc Mỹ cho không quân thuộc hạm đội 7 đánh phá từ Hòn Nẹ đến cửa Lạch Trường. Dân quân Ngư Lộc, Hòa Lộc, Minh Lộc (Hậu Lộc) và Hoằng Trường (Hoằng Hóa), tự vệ Thủy sản Lạch Trường, đồn 74 Công an nhân dân vũ trang dùng súng máy phối hợp cùng cao xạ của tàu hải quân, súng 14.55 mm của Đại đội ra đa đánh trả, bắn rơi 2 chiếc máy bay của địch, góp phần vào chiến thắng chung ngày 5/8/1964 của quân dân cả nước đánh bại cuộc tấn công “Mũi tên xanh” của không quân Mỹ.

Mùng năm tháng tám (5/8)

 

13

Mùng sáu tháng mười hai (6/12)

Ngày 06-12-1930: Hội nghị thành lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Tĩnh Gia được tiến hành tại nhà đồng chí Nguyễn Văn Giảng, thuộc làng Hồ Thượng (nay thuộc phường Tân Dân, thị xã Nghi Sơn). Tham dự hội nghị gồm có các đồng chí Ngô Đức Mậu, Nguyễn Văn Giảng, Nguyễn Trinh Thụ, Lương Đình Đạm, Đỗ Khắc Toản, Lê Huy Tuần. Trong không khí trang nghiêm, đồng chí Ngô Đức Mậu trình bày chủ trương thành lập Đảng của Xứ ủy Trung Kỳ, tuyên bố kết nạp 5 đồng chí có mặt trong hội nghị vào Đảng và tuyên bố thành lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên của Tĩnh Gia, do đồng chí Nguyễn Văn Giảng làm Bí thư Chi bộ.

Mùng sáu tháng mười hai (6/12)

 

14

Mùng tám tháng năm (8/5)[214]

Ngày 08-5 (dương lịch) hằng năm là ngày kỷ niệm Danh xưng Thanh Hóa. Theo Nghị quyết số 112/NQ-HĐND ngày 11/7/2018 của Hội đồng nhân dân tỉnh Thanh Hóa khóa XVII, tại kỳ họp thứ 6 về ngày kỷ niệm Danh xưng Thanh Hóa.

Mùng tám tháng năm (8/5)

 

15

Mười chín tháng chín (19/9)

Mười chín tháng chín (19/9): Ngày thành lập đội du kích Ngọc Trạo. Ngày 19/9/1941, tại Hang Treo một địa điểm của căn cứ Ngọc Trạo, thay mặt Tỉnh ủy, Ban lãnh đạo chiến khu Ngọc Trạo đã thành lập Đội Du kích Ngọc Trạo. Đây là đội du kích vũ trang thoát ly đầu tiên của Chiến khu Ngọc Trạo. Đội du kích gồm 21 chiến sỹ ưu tú tiền thân của lực lượng vũ trang Thanh Hóa sau này. Tại đây, lần đầu tiên xuất hiện cờ đỏ sao vàng. Đây là một trong những lực lượng du kích thoát ly tập trung được thành lập sau Hội nghị Trung ương 8/1941 của Đảng. Khi chiến khu thành lập, theo chỉ đạo của Tỉnh ủy Thanh Hóa, các cơ sở cách mạng trong tỉnh chọn lựa những người ưu tú nhất trong đội tự vệ cử lên tham gia Chiến khu Ngọc Trạo.

Mười chín tháng chín (19/9)

 

16

Mười hai tháng ba (12/3)

Ngày 12/3/1940, Huyện ủy lâm thời Hậu Lộc được thành lập tại thôn Trần Phú, xã Mỹ Lộc, bầu ra Bí thư và BCH lâm thời. Đây là sự kiện có ý nghĩa quan trọng đối với phong trào cách mạng của Hậu Lộc. Lần đầu tiên Hậu Lộc có một tổ chức Đảng lãnh đạo thống nhất từ huyện xuống cơ sở để đưa phong trào cách mạng trong huyện hòa nhập với phong trào chung của tỉnh.

Mười hai tháng ba (12/3)

 

Ngày 12/3/1960, tại thị xã Thanh Hóa (nay là thành phố Thanh Hóa), lễ kết nghĩa giữa hai tỉnh Thanh Hóa - Quảng Nam được long trọng tổ chức. Đây là sự kiện chính trị trọng đại, góp phần động viên, cổ vũ Đảng bộ và Nhân dân hai tỉnh thực hiện thắng lợi đồng thời 2 nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam thời điểm đó là: Xây dựng Chủ nghĩa xã hội và chống Mỹ cứu nước.

17

Mười lăm tháng hai (15/02)

Ngày 15/02/1949, là ngày Chi bộ Cộng sản đầu tiên - tiền thân của Đảng bộ huyện Lang Chánh ra đời. Đây là dấu mốc quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển của Đảng bộ và phong trào cách mạng của đồng bào các dân tộc huyện Lang Chánh.

Mười lăm tháng hai (15/02)[215]

Đã đặt tên đường

18

Mười sáu tháng tư (16/4)

Ngày 16/4/1934 là ngày thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên của huyện Vĩnh Lộc, do đồng chí Lê Văn Tân làm Bí thư, được thành lập ở làng Xuân Áng nay là xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc do đồng chí Lê Chủ chủ trì.

Mười sáu tháng tư (16/4)

 

19

Mười tám tháng hai (18/2)

Ngày 18/2/1946: Tại nhà Hội Giảng cầu Quan, là ngày thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên Đảng bộ huyện Nông Cống, đồng chí Lê Thế Nguyên (tức Trần Nguyện Đông) làm Bí thư Chi bộ, địa điểm này xây dựng tượng đài thuộc xã Trung Chính, huyện Nông Cống.

Mười tám tháng hai (18/2)

 

20

Ngày mùng một tháng một (1/1)

Ngày 01/01/1931, một sự kiện trọng đại đã diễn ra tại làng Hồ Thượng. Đại biểu của các cơ sở Đảng trong tỉnh đã tiến hành Hội nghị tái thành lập Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa ở nhà đồng chí Nguyễn Văn Giảng. Hội nghị đã bầu 5 đồng chí vào Ban chấp hành Đảng bộ lâm thời. Trong đó, Chi bộ Tĩnh Gia được bầu 2 đồng chí Ngô Đức Mậu giữ chức Bí thư tỉnh ủy và đồng chí Nguyễn Văn Giảng là Tỉnh ủy viên.

Mùng một tháng một (1/1)

 

V. TÊN DANH NHÂN: 220 danh nhân

1. Danh nhân đất nước: 18 danh nhân

STT

Tên dùng

Quê quán

Tóm tắt lý lịch

1

Bùi Huy Bích

Hà Nội

Bùi Huy Bích (1744 - 1818) tự Hi Chương (hay Ảm Chương) hiệu Tồn Am, quê làng Định Công, huyện Thanh Trì, Hà Nội, làm quan triều Lê đến chức tể tướng, ông còn là một nhà thơ, nhà biên soạn sách.

2

Hồ Biểu Chánh

Long An

Hồ Biểu Chánh (1885 - 1958) tên thật là Hồ Văn Trung, quê làng Bình Thành, huyện Kiến Hòa, nay thuộc tỉnh Long An. Ông là nhà văn lớn, có một sự nghiệp sáng tác đồ sộ với 64 cuốn tiểu thuyết, 12 tập truyện ngắn, 12 vở hài kịch và 5 tập thơ...Ông đã có công lao đóng góp vào sự hình thành tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.

3

Lê Cố

Thanh Hóa

Lê Cố (? - ?), quê huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa, tham gia khởi nghĩa Lam Sơn ngay từ những ngày đầu, có tên trong danh sách 35 vị khai quốc công thần hàng đầu của nhà Lê, được phong tước Đường Quận công.

4

Nguyễn Đỗ Cung

Hà Nội

Nguyễn Đỗ Cung (1912 - 1977), quê Sơn Tây nhưng sinh ở làng Xuân Đỉnh, huyện Từ Liêm, Hà Nội, ông nổi tiếng về sự nghiệp hội họa, là viện trưởng đầu tiên Viện mỹ thuật, mỹ nghệ Việt Nam, sáng lập ra Viện bảo tàng mỹ thuật, đồng thời cũng là một sáng lập viên Hội văn nghệ dân gian Việt Nam.

5

Nguyễn Quý Đức

Hà Nội

Nguyễn Quý Đức (1647 - 1720) quê làng Đại Mỗ, huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Đông, nay thuộc ngoại thành Hà Nội. Ông làm quan triều Lê, là một nhà chính trị xuất sắc có nhiều công trạng với triều đình và đất nước.

6

Đoàn Nhữ Hài

Hải Hưng

Đoàn Nhữ Hài (1280 - 1335), quê làng Hội Xuyên, huyện Trường Tân, Hồng Châu nay là huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Hưng. Ông làm quan dưới thời Trần, ông là một tài năng xuất sắc từ lúc còn thiếu niên, khá tiêu biểu cho con người tri thức toàn diện của nước ta dưới thời Trần, đặc biệt không bằng con đường khoa cử để tiến thân mà bằng thực học và bằng sự tích lũy nhiều kiến thức, vận dụng chính xác vào thực tiễn.

7

Nguyễn Hành

Hà Tĩnh

Nguyễn Hành (1771 - 1824), quê làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, chính tên là Nguyễn Đạm. Ông học rộng biết nhiều, có biệt tài về thơ, ông cùng Nguyễn Du được coi là hai trong số năm nhà thơ nổi tiếng nhất thời bấy giờ (thường gọi là An Nam ngũ tuyệt).

8

Văn Ký

Nam Định

Vũ Văn Ký (Văn Ký) (1928 - 2020), quê Vụ Bản, tỉnh Nam Định, lên 10 tuổi theo cha ở tại làng Bi Kiều, xã Trung Chính. Học hết tiểu học, bố mất nhà nghèo, ở với chú, ngày ngày gánh hành cùng người thím đi chợ Nưa. Tháng 10/1943 ông được đồng chí Trịnh Huy Tự giác ngộ vào Mặt Trận Việt Minh huyện Nông Cống. Tháng 10/1944 ông bị bắt giam tại nhà tù Thanh Hóa. Cách mạng thành công, ông được làm Trưởng Ban Tác chiến trong Ủy ban huyện Nông Cống, ông đi học âm nhạc kháng chiến quân khu IV trở thành nhạc sĩ nổi tiếng, được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2022.

9

Nguyễn Bá Lân

Hà Nội

Nguyễn Bá Lân (1700 - 1785), quê xã Cổ Đô, huyện Tiên Phong nay là Cổ Để, huyện Ba Vì, ngoại thành Hà Nội. Là một danh tướng dưới triều Lê Hiến Tông, ông còn nổi tiếng là danh sĩ, được ca ngợi là một trong bốn người giỏi ở Thăng Long (Trường An tứ hổ).

10

Đàm Văn Lễ

Bắc Ninh

Đàm Văn Lễ (1452 - 1505), quê làng Lãm Sơn, huyện Quế Dương, nay thuộc thị xã Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Ông làm quan dưới triều Lê, ông có nhiều đóng góp với văn hóa nước nhà, đồng thời ông còn là một nhà thơ.

11

Dương Không Lộ

Thái Bình

Dương Không Lộ (1016 - 1094), quê làng Giao Thủy, huyện Hải Thanh, tỉnh Thái Bình. Ông làm quan dưới triều Lý Nhân Tông và được phong làm quốc sư, ông cũng được xem là vị tổ nghề đúc đồng.

12

Hoàng Ngân

Nam Định

Hoàng Ngân (1921 - 1949), quê Nam Định, tên thật là Phạm Thị Vân là Bí thư Trung ương Hội Phụ nữ cứu quốc Việt Nam đầu tiên, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ nhiệm đầu tiên của báo Phụ nữ Việt Nam, một trong những người đi đầu của phong trào phụ nữ Việt Nam, vợ của đồng chí Hoàng Văn Thụ.

13

Lê Khả Phiêu

Thanh Hóa

Lê Khả Phiêu (1931 - 2020), quê xã Đông Khê, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa, là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII. Tháng 5/1950, ông tham gia Quân đội nhân dân Việt Nam; Ông đã tham gia chiến đấu và trực tiếp chỉ huy chiến đấu trên các chiến trường Bắc, Trung, Nam và làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào, Campuchia; tham gia các chiến dịch lớn như: Chiến dịch Điện Biên Phủ (1954), Tổng tiến công Tết Mậu Thân (1968), Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào (1971), Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng hoàn toàn miền Nam (1975). Đặc biệt, ông đã có 10 năm tham gia giúp nước bạn Campuchia đập tan chế độ diệt chủng Pôn Pốt (1979 - 1989), giúp hồi sinh dân tộc Campuchia. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 4 khóa VIII, ông được bầu giữ chức vụ Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Bí thư Quân ủy Quân sự Trung ương và giữ cương vị này đến Đại hội lần thứ IX của Đảng (tháng 4/2001). Ông là đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX, X; được Đảng và Nhà nước phong quân hàm Thiếu tướng năm 1984, Trung tướng năm 1988, Thượng tướng năm 1992.

14

Hà Tông Quyền

Hà Tĩnh

Hà Tông Quyền (1798 - 1839), quê gốc ở Can Lộc, Hà Tĩnh sau di cư ra làng Cát Động, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây làm quan dưới triều Nguyễn, ông có tiếng về chính trị đồng thời ông cũng quan tâm đến văn nôm, ông có ba tập thơ Vịnh Kiều.

15

Đào Công Soạn

Hưng Yên

Đào Công Soạn (1376 - 1456), quê làng Tiện Phiến, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Ông làm quan triều Lê, có tài về ngoại giao sang sứ nhà Minh nhiều lần, ông đã lần lượt phụ trách nhiều ngành công tác trong triều.

16

Chu Thiên

Hà Nam

Chu Thiên (1913 - 1992) quê xã Yên Thành, huyện Ý Yên, tỉnh Hà Nam. Ông là nhà sử học, nhà văn, tinh thông cả Nho học và Tây học. Nổi tiếng về những bộ tiểu thuyết lịch sử, trong đó phục dựng lại các biến cố, các nhân vật lịch sử, làm sống lại nhiều phong tục tập quán của xã hội Việt Nam truyền thống.

17

Bùi Viện

Thái Bình

Bùi Viện (1839 - 1878), quê làng Trình Phố, huyện Trực Định (nay là huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình), làm quan dưới thời vua Tự Đức, là một trong những người đầu tiên xây dựng cảng Hải Phòng. Thành tựu của ông để lại có ý nghĩa mở đầu đối với yêu cầu duy tân ở các mặt thủy quan, thương mại hàng hải.

18

Ngô Thế Vinh

Nam Định

Ngô Thế Vinh (1802 - 1856), quê làng Bái Dương, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Tự là Trọng Dực, hiệu Trúc Đường, Dương Đình, đỗ tiến sĩ 1829, làm quan triều Nguyễn, đồng thời ông còn là một nhà giáo dục nổi tiếng nửa đầu thế kỷ XIX.

2. Danh nhân, nhân vật lịch sử được suy tôn tại Thanh Hóa: 202 danh nhân

2.1. Danh nhân, nhân vật lịch sử là người ngoài tỉnh có đóng góp cho Thanh Hóa, được suy tôn tại Thanh Hóa: 07 danh nhân

STT

Tên dùng

Quê quán

Tóm tắt lý lịch

1

Trương Văn Bang

Long An

Trương Văn Bang (1911 - 1981), quê quán làng Phước Lại, quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn (nay là xã Phước Lại, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An). Ông nguyên Bí thư Đảng ủy Nông trường Lam Sơn (huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa); Nguyên Bí thư Tỉnh ủy Chợ Lớn, Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn, nguyên Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ.

2

Quách Đình Bảo

Thái Bình

Quách Đình Bảo (1434 - 1507), quê xã Phúc Khê, huyện Thanh Lan, nay là xã Thái Phúc, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Đỗ thám hoa (1463), làm quan triều Lê Thánh Tông, từ học sĩ Viện Hàn Lâm đến Thượng thư bộ Lễ bộ Hình. Ông là anh trai Quách Hữu Nghiêm, hai anh em cùng tham gia vịnh thơ khắc trong văn bia Hoàng Thái hậu Ngô Thị Ngọc Giao ở Vĩnh Lăng Lam Kinh. Ông còn là 28 vì sao sáng trên bầu trời thơ văn Đại Việt lúc đó như: Lê Thánh Tông, Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận, Quách Đình Bảo, Quách Hữu Nghiêm, Lương Thế Vinh, Lê Hoằng Dục, Nguyễn Đình Mỹ... cho ra đời nhiều tập thơ: Hồng Đức quốc âm thi tập, Quỳnh uyển cửu ca, Cổ tâm bách vịnh, Xuân văn thi tập... ông là một thành viên tích cực của Tao đàn. Năm 1484, Lê Thánh Tông sai ông ghi chép họ tên thứ bậc các tiến sĩ từ khoa Nhâm Tuất Đại Bảo năm thứ 3 (1442) triều Lê Thái Tông đến khoa Giáp Thìn Hồng Đức năm thứ 15 (1484), tổng cộng 10 khoa, để bộ Công khởi công dựng bia Tiến sĩ (trong đó ghi chép rất nhiều những danh sĩ người Thanh Hóa).

3

Nguyễn Sỹ Dũng

Bình Định

Nguyễn Sỹ Dũng (? - ?), quê Bình Định. Theo gia phả dòng họ Nguyễn Sỹ ở làng Lộc Trung, phường Quảng Tiến, thành phố Sầm Sơn, Nguyễn Sỹ Dũng tên thật là Vũ Văn Dũng; quê làng Phù Mỹ, xã Bình Phú, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Ông là hổ tướng số một trong 7 vị tướng tài của Vua Quang Trung Nguyễn Huệ trong cuộc kháng chiến chống xâm lược của nhà Thanh cuối thế kỷ XVIII. Ông đã từng giữ chức Đại Tư Khấu, rồi Đại Tư Đồ dưới triều vua Nguyễn Quang Toản (con Quang Trung) và là người có nhiều công lao trong việc trấn thủ Bắc Thành (Hà Nội), chỉ huy nhiều trận đánh lớn chống thế lực thù địch ở đàng trong của Nguyễn Ánh thời bấy giờ, nổi nhất là trận Thị Nại năm 1800 - 1801.

Sau khi vua Quang Trung mất, để tránh sự truy sát của Nguyễn Ánh, ông đã đưa gia đình chạy ra vùng đất Lộc Trung, Thanh Hóa (nay thuộc phường Quảng Tiến, thành phố Sầm Sơn) ẩn dật và đổi tên thành Nguyễn Sỹ Dũng. Để tưởng nhớ công lao của Đô đốc Nguyễn Sỹ Dũng, Nhân dân làng Lộc Trung lập đền thờ ông ở gần cửa Lạch Hới, phường Quảng Tiến ngày nay. Đền thờ Nguyễn Sỹ Dũng được Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin (nay là Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh tại Quyết định số 164/VHQĐ ngày 25/9/1993 và được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa cấp bằng xếp hạng di tích lịch sử văn hóa tại Quyết định số 4190/QĐ-UBND ngày 14/12/2011.

4

Lý Nhật Quang

Ninh Bình

Lý Nhật Quang (995 - 1057), quê tỉnh Ninh Bình, là hoàng tử thứ 8 của vua Lý Thái Tổ. Vào nửa đầu thế kỷ XI, vua Lý đã cử ông vào trấn ải phương Nam, ông thay mặt triều đình cai quản phía nam, để ổn định xã hội và bảo vệ vùng phên dậu Đại Việt. Ông đã có công tổ chức và xây dựng được vùng căn cứ hậu cần vững chắc dọc tuyến sông Bà Hòa (sông Lạch Bạng) và dựng trại Bà Hòa (xã Trường Lâm) để dựng trại tập kết quân đội, cất giữ lương thực, giúp vua Lý Thái Tông đánh thắng Chiêm Thành.

5

Đinh Đức Thiện

Nam Định

Thượng tướng Đinh Đức Thiện (? - ?), quê Nam Định, ông nguyên là Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, phụ trách công tác hậu cần kỹ thuật và vận tải thời kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Ông từng về huyện Thạch Thành và đã giúp huyện 03 máy phát điện phục vụ hoạt động của cơ quan Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện.

6

Vũ Xuân Thiều

Nam Định

Vũ Xuân Thiều (1945 - 1972), quê gốc ở huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Năm 1968, sau khi hoàn thành xuất sắc khóa học tập và huấn luyện bay ở Liên Xô (trước đây), phi công Vũ Xuân Thiều trở về nước và được biên chế về Trung đoàn Không quân Sao Đỏ (E921). Tháng 12/1972, khi Mỹ mở rộng cuộc tập kích chiến lược quy mô lớn bằng máy bay B-52 vào thành phố Hà Nội và Hải Phòng, Vũ Xuân Thiều cùng đồng đội quyết tâm diệt B-52. Đêm 28/12/1972, Vũ Xuân Thiều cất cánh từ sân bay quân sự Cẩm Thủy (Thanh Hóa) bay đến vùng trời Sơn La thì gặp máy bay B-52 của Mỹ đang đánh vào Hà Nội. Vũ Xuân Thiều tấn công, máy bay B-52 của địch bốc cháy, vì ở cự ly quá gần anh đã hy sinh cùng lúc lập chiến công. Tháng 12/1994, ông đã được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân.

7

Hoàng Kế Viêm

Quảng Bình

Hoàng Kế Viêm (1820 - 1909), quê làng Văn La, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình, ông làm quan cuối triều Nguyễn, là vị quan xuất sắc về mặt võ, có công dẹp yên được một số vụ rối loạn ở Bắc Kỳ. Năm 1854 ông được cử làm Bố chính Thanh Hóa. Ông còn quan tâm đến kinh tế như đào kênh thiết cảng ở Nghệ An, khai khẩn đất hoang ở quê nhà.

2.2. Danh nhân, nhân vật lịch sử Thanh Hóa: 163 danh nhân

STT

Tên dùng

Quê quán

Tóm tắt lý lịch

1

Hoằng Bát

Hoằng Hóa

Hoằng Bát (1198-?), quê làng Thanh Nga, xã Hoằng Trinh, huyện Hoằng Hóa, có công cung cấp lương thực giúp vua Trần Thái Tông đi đánh Chiêm Thành năm 1251, được vua ban tước Thực Lộc hầu.

2

Lê Biện

Thiệu Hóa

Lê Biện (1586 - ?) quê Phủ Lý, huyện Đông Sơn (nay là thôn 4, xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa). Năm 46 tuổi, ông đỗ Hoàng giáp khoa Tân Mùi, niên hiệu Đức Long thứ 3 (1631) đời vua Lê Thần Tông. Ông làm quan đến chức Lại khoa Đô cấp sự trung, tước Cẩm Nham tử.

3

Lang Văn Bôn

Như Thanh

Lang Văn Bôn (? - ?), quê xã Thanh Kỳ, huyện Như Thanh, là người dân tộc Thái, người đất Kỳ Thượng. Ông là thủ lĩnh quân sự có công xây dựng căn cứ Kỳ Thượng, sau này hợp nhất với nghĩa quân của Tú Phương ở căn cứ Hương Trì tạo thành một căn cứ Ổn Lâm - Kỳ Thượng vững chắc chống Pháp ở Nam Nông Cống.

4

Trịnh Bưu

Yên Định

Trịnh Bưu (1882 - ?), quê làng Yên Định, tổng Yên Định (nay thuộc xã Định Tân, huyện Yên Định). Ông đậu khoa thi hương năm Quý Mão (1903) đã từng làm tri huyện Bình khê (Bình Định). Ông có biệt hiệu là Tam An, là người khí khái, thẳng thắn, dám phê bình tập Tổng vịnh của vua Tự Đức là không hay nên đường quan lộ không bền. Ngoài ra, ông còn có tư tưởng bài Tây, từ quan, Trịnh Bưu ra Hà Nội làm báo, thực nghiệp, khai hóa... Ông có sáng tác rất nhiều bài thơ cho báo Thanh Nghệ Tĩnh tân văn và nhiều thơ văn Hán - Nôm biểu hiện rõ tinh thần yêu nước, nhiều bài được chọn lọc giới thiệu trên thơ văn yêu nước đầu thế kỷ XX.

5

Lưu Minh Châu

Hậu Lộc

Lưu Minh Châu (1922 - 1977), quê Hậu Lộc, ông tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở Hậu Lộc trong cách mạng tháng 8 năm 1945. Sau cách mạng, ông làm Bí thư thanh niên đầu tiên của Hậu Lộc, Bí thư tỉnh đoàn Thanh Hóa, Bí thư Thành đoàn Hà Nội, Phó Ban Dân Vận Trung ương, tham gia Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI.

6

Võ Văn Chí

Thành phố Thanh Hóa

Võ Văn Chí (? - ?), quê làng Từ Quang, xã Hoằng Long cũ, nay là phường Long Anh, thành phố Thanh Hóa. Năm 1894, ông thi đỗ Cử nhân khoa Giáp Ngọ, niên hiệu Thành Thái. Ông làm quan Tri huyện.

7

Nguyễn Chiến

(Nguyễn Khắc Cầm)

Hoằng Hóa

Nguyễn Chiến (Nguyễn Khắc Cầm) (1918 - 1990), quê xã Hoằng Châu, huyện Hoằng Hóa, ông là lão thành cách mạng có nhiều đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và phát triển của huyện Hoằng Hóa. Ông là Bí thư chi bộ Đảng Cộng sản huyện (4/1944); Bí thư Huyện ủy Hoằng Hóa (4/1946).

8

Mai Thế Chuẩn

Nga Sơn

Mai Thế Chuẩn (1703 - ?), quê xã Thạch Giản, nay là xã Nga Thạch, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông sinh năm 1703 trong một gia đình, dòng họ nổi tiếng về học hành khoa cử và làm quan. Năm Tân Hợi (1731), ông thi đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân. Sau khi thi đỗ, ông được bổ nhiệm làm quan văn trong triều, thăng đến chức Hữu thị lang kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám, tước Hương lĩnh bá. Về sau, ông được giữ chức Đốc lĩnh các đạo Tây Nam, rồi Sơn Tây. Do có nhiều công lao trong dẹp yên các cuộc nổi dậy nên ông được tín nhiệm giao trọng trách trấn thủ Lạng Sơn - vùng đất biên cương phía Bắc của Tổ quốc, là phên dậu, được mệnh danh là tấm áo giáp bảo vệ Kinh thành Thăng Long từ phía Bắc.

9

Phạm Ngọc Chúc

Quan Hóa

Phạm Ngọc Chúc (? - ?), quê huyện Quan Hóa, làm thượng tướng thống lĩnh quân. Ông được vua Lê Thế Tông (1573 - 1599) phong hàm tả tướng Thái úy và giữ chức Đặc tiến thượng tướng quân, quân dân Thái úy đại sứ ty, Quảng úy đại sứ tước phong Phú xuyên hầu trụ quốc trung trật.

10

Tôn Thất Cơ

Thị xã Nghi Sơn

Tôn Thất Cơ (? - ?), quê thị xã Nghi Sơn, vốn dòng dõi hoàng tộc gần gũi với vua Bảo Đại. Do mắc lỗi với Triều đình nhà Nguyễn, ông bị đày đi an trí tại đảo Nghi Sơn, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Năm 1937, lãnh binh Tôn Thất Cơ đã có công phá núi mở đường vào Biện Sơn (con đường ngày nay men theo triền núi đang sử dụng). Ông có khắc bài thơ trên hòn đá cạnh bờ biển “Rừng xanh ta mở con đường”.

11

Lê Tự Cường

Hoằng Hóa

Lê Tự Cường (? - 1635), quê thôn Tây, xã Đằng Cao, trấn Thanh Hóa (nay là thôn Tê, xã Hoằng Đạo, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa). Ông làm quan dưới thời vua Lê - chúa Trịnh, ông có công trong việc phò giúp nhà Lê, lập được nhiều công được thăng chức trung quân Đô đốc phủ Tả Đô đốc Hải Quận công, trung quân Đô đốc Thiêm sự Hải quận công sau thăng lên Thiếu bảo.

12

Tống Hữu Đại

Hà Trung

Tống Hữu Đại (? - 1665), quê huyện Hà Trung, làm trấn thủ cựu dinh, tức dinh Ái Tử từ năm 1635. Năm 1665 ông mất, tước phong Đại Thắng hầu, được truy tặng Thắng Quận Công.

13

Tư Mã Hai Đào

Bá Thước

Tư Mã Hai Đào (? - ?), quê làng Đào, xã Điền Quang, huyện Bá Thước. Theo truyền thuyết vào thế kỷ XV, ông tham gia bảo vệ biên cương ở huyện Mường Lát. Ông được triều đình phong quận công và Tư Mã trấn ải biên cương. Ông đã quyết định chọn Mường Xia xây dựng thủ phủ sinh sống đến cuối đời. Đền thờ Tư Mã Hai Đào ở bản Chung Sơn, xã Sơn Thủy, huyện Quan Sơn, hiện đang đề nghị tỉnh xếp hạng di tích cấp tỉnh.

14

Nguyễn Trí Đạo

Thạch Thành

Nguyễn Trí Đạo (Quận Đạo) (1916-1991), quê huyện Thạch Thành. Ông là lão thành cách mạng, ông tham gia đội du kích Ngọc Trạo năm 1941. Ông là Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa, Ủy ban cách mạng lâm thời, Ủy ban hành chính, Ủy ban kháng chiến huyện Thạch Thành từ 1945-1949.

15

Trần Hưng Đạt

Thanh Hóa

Trần Hưng Đạt (? - 1810), ông có tên khác là Trần Hưng Thân, người Thanh Hóa, tổ tiên ông là Trần Phúc Tư, ông theo Nguyễn Hoàng vào định cư tại Thuận Hoá. Ông là người có học vấn cao, có con gái gả làm phi tần của Nguyễn Ánh (tức là Thuận Thiên cao Hoàng hậu). Ông làm việc tại Hàn Lâm viện, sau thăng làm Hữu Tham tri bộ Lễ. Năm Minh Mạng thứ 2 (1821) ông được truy tặng Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu, Thượng trụ quốc, Thiếu phó, Hà Hoa quận công, ban tên thụy là Ôn Cẩn. Năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), Trần Hưng Đạt được gia tặng cần chính điện Đại học sĩ, Thái phó, đổi phong là Thọ Quốc công.

16

Đỗ Tuấn Dẫy

Nông Cống

Đỗ Tuấn Dẫy (? - ?), quê làng Ngọc Tháp, xã Cổ Đôi, nay là xã Hoàng Giang, huyện Nông Cống. Ông từng làm Cai tổng Văn Xá nên Nhân dân gọi là Cai Văn, sau thăng chức làm Bang Tá Nông Cống nên gọi ông là Bang Văn. Khi phong trào Cần Vương nổi lên, ông cùng Tri huyện Tôn Thất Hàm và một số quan chức khác bỏ huyện đường về mộ quân Cần Vương. Ông đóng căn cứ ở núi Hoàng Nghiêu, phục kích đánh địch ở Thị Long và nhiều trận khác khiến giặc Pháp chịu nhiều tổn thất. Năm 1886 ông bị bắt và quân Pháp đem ra chém ở cầu Hạc.

17

Trịnh Cao Đệ

Thiệu Hóa

Trịnh Cao Đệ (1630 - 1706) tức là Trịnh Đăng Đệ, quê xã Vãn Hà, huyện Thụy Nguyên (nay thuộc thị trấn Thiệu Hóa, huyện Thiệu Hóa). Năm 21 tuổi, ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ khoa xuất thân khoa thi Canh Dần, niên hiệu Khánh Đức thứ 2 (1650), đời vua Lê Thần Tông. Ông làm quan đến chức Thái thường Tự khanh. Sau khi mất, ông được tặng Tả Thị lang, tước Hầu.

18

Nguyễn Tắc Dĩnh

Hoằng Hóa

Nguyễn Tắc Dĩnh (1447 - ?), quê xã Lam Cầu, nay là thôn Lam Hà, xã Hoằng Đại, huyện Hoằng Hóa (nay là thành phố Thanh Hóa). Ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Tuất, niên hiệu Hồng Đức 9 (1478) vào năm 32 tuổi, làm quan đến chức Hộ bộ Tả thị lang.

19

Lê Định

Thường Xuân

Lê Định (? - 1459), quê xã Nông Vụ, tổng Bái Dương, huyện Lôi Dương (nay là xã Xuân Dương, huyện Thường Xuân), tham gia khởi nghĩa Lam Sơn ngay từ những ngày đầu, lập được rất nhiều công trạng, được xếp vào hàng những người có công đầu (đệ nhất công thần). Khi Lê Lợi ban thưởng, ông được liệt vào hàng Bình Ngô khai quốc công thần và phong làm Tả Kim Ngô vệ Thượng tướng quân, tự hiệu hầu, sau thăng Bảo chính công thần, Nhập nội thiếu úy, Đại tư mã. Khi mất, được truy phong Mậu Liệt hầu, rồi Hoàng tông Cường quận công, có lăng mộ tại đồi Công Phủ, điện thờ tại thôn Thống Nhất 2, xã Xuân Dương.

20

Trịnh Đồ

Triệu Sơn

Trịnh Đồ (? - 1447), quê xã Tân Ninh, huyện Triệu Sơn, ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn. Năm 1428, do lập được nhiều công, ông được phong Ngân Thanh quang lộc đại phu, Tả xa kỵ, vệ đại tướng quân, quan nội hầu, Thiếu bảo Dũng quận công. Năm Hồng Đức thứ 15 (1484) được truy phong Thái bảo Á liệt hầu....

21

Đỗ Phúc Đồng

Hậu Lộc

Đỗ Phúc Đồng (? - ?), quê làng Thiều Xá, tổng Chi Nê (nay là làng Thiều Xá, xã Cầu Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa). Ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn. Tháng 2/1429, ông được phong Phụ quốc Vĩnh lộc Đại phu tướng quân. Vua Khải Định năm thứ 9 sắc phong “Dực bảo Trung hưng Linh phù, phụ quốc Vinh Lộ Đại phu Đỗ tướng quân.

22

Lương Đại Đồng

Hoằng Hóa

Lương Đại Đồng (? - ?), quê làng Hội Triều, nay thuộc xã Hoằng Phong, huyện Hoằng Hóa. Cụ thân sinh của ông là người gốc Trung Quốc sang Việt Nam từ năm 1311. Ông đỗ thái học sinh, được phong tước Thái bảo thái văn hầu.

23

Đinh Công Đột

Ngọc Lặc

Đinh Công Đột (? - ?), quê gốc ở huyện Ngọc Lặc. Ông còn có tên là Đinh Công Nhiếp, ông là con trai Đinh Liệt, được cha phái vào Nông Cống tìm đất lộc điền vua ban. Ông và con nuôi là Đào Khắc Thành đến đất cầu Quan dự định khai khẩn ở đây. Sau ba năm khai phá do đất cầu Quan chật hẹp cho nên tìm đến chân núi Nưa khai hoang. Vùng đất này gần làng Đống Cải (Nay là Đông Cao - Trung Chính) và ông đã dựa vào đất này để làm cơ sở ban đầu cho họ Đinh gọi là Đống Cải Đinh tộc (tức tộc họ Đinh làng Đống Cải). Ông cùng con cháu họ Đinh ở Kiên Thọ, Ngọc Lặc kiến tạo làng xóm ở Đông Cao - Nông Cống trở nên trù phú. Đinh Công Đột là quan võ thời Lê Sơ, chức Tả Thị Lang bộ Binh kiêm lãnh Tông Nhân phủ, tước Văn Thắng hầu, sau khi mất được vinh phong Trung hưng Dực bảo công thần, tước Thắng Quận công.

24

Lê Quảng Du

Thiệu Hóa

Lê Quảng Du (1437 - ?), quê làng Lỗ Hiền, huyện Lôi Dương (nay là thị trấn Hậu Hiền, huyện Thiệu Hóa). Năm 39 tuổi, ông đỗ Hoàng giáp khoa Ất Mùi, niên hiệu Hồng Đức thứ 6 (1475), đời vua Lê Thánh Tông. Ông từng đi sứ sang nhà Minh (năm 1492), sau được thăng đến chức Giám sát Ngự sử.

25

Vũ Như Du

Thiệu Hóa

Vũ Như Du (? - ?), quê làng Chí Cường, tổng Phùng Cầu (nay là xã Thiệu Quang, huyện Thiệu Hóa). Nhập ngũ vào lúc các chúa Trịnh lo tuyển lựa, luyện tập và ưu đãi tướng tá và binh sĩ nên đã tạo được đội quân thường trực mạnh, đánh trận dẻo dai, rất trung thành với triều đình. Việc phong tước cho các tướng võ và binh sĩ có công khá rộng rãi, quan võ cũng được hưởng đặc quyền như quan văn bởi Nhà nước Lê Trịnh phải nắm quân đội mới tồn tại được lâu dài. Năm 1747, Vũ Như Du trong đội quân của Triều đình do Hoàng Ngũ Phúc chỉ huy đi lập lại an ninh phía bắc kinh thành Thăng Long.

26

Mai An Dũng

Vĩnh Lộc

Mai An Dũng (1512 - 1602), quê làng Đông Biện (nay là xã Minh Tân, huyện Vĩnh Lộc), là người có công an táng mẹ của Trịnh Kiểm. Sau này nhà Trịnh hưng vượng, Trịnh Tùng phong cho ông tước Quận Công, trông coi mồ mả cho nhà Trịnh, được dân làng lập miếu thờ, tôn làm Thành Hoàng làng.

27

Nguyễn Xuân Dương

Thành phố Thanh Hóa

Nguyễn Xuân Dương (1440 - ?), quê xã Từ Minh, huyện Hoằng Hóa, nay là phường Long Anh, thành phố Thanh Hóa. Năm 24 tuổi, ông đỗ Đệ Tam Giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Quý Mùi (1463) đời vua Lê Thánh Tông. Ông làm quan Tri huyện, sau đó làm quan ở kinh đô.

28

Lê Duyên

Thành phố Thanh Hóa

Lê Duyên (? - ?), quê thành phố Thanh Hóa. Ông cùng Lê Thùy và Lê Trung là 03 người con trai của Tướng quân Lê Thành; các ông được sinh ra và lớn lên tại làng Định Hòa đã có công phò Vua, giúp nước dưới triều Lê Sơ và đều được phong tước hiệu. Hiện đang được thờ cùng tại đền thờ Tướng quân Lê Thành, làng Định Hòa, phường Đông Cương.

29

Đỗ Văn Gạo

Hoằng Hóa

Đỗ Văn Gạo (? - ?), quê xã Hoằng Sơn, huyện Hoằng Hóa. Ông gốc họ Đỗ, từ ngoài Bắc vào, sinh sống ở làng Xuân Sơn, xã Dương Sơn (nay là làng Xuân Sơn, xã Hoằng Sơn). Dưới triều vua Lê Hiển Tông (1740-1786), ông gia nhập quân đội, vì lập được công lao nên ông được ban Bá hộ, là bậc Phấn lực tướng quân. Sau này, ông được vua Lê Hiển Tông ban cho chức Thống lĩnh tiền Kỳ tướng quân, ban cho họ của nhà vua là Lê Gạo.

30

Phan Độc Giác

Đông Sơn

Phan Độc Giác (? - ?), quê làng Cẩm Tú, xã Đông Hoàng, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Phan Độc Giác là tướng quân dưới triều nhà Lý có công đánh đuổi giặc Chiêm Thành giữ vững bờ cõi giang sơn, được phong Thành Hoàng làng. Đình - Nghè Tướng quân Phan Độc Giác được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh năm 1993. Trải qua các triều đại phong kiến, ông được vua ban 21 đạo sắc phong, hiện di tích đền thờ ông còn lưu giữ 17 đạo sắc phong ở các triều Lê - Nguyễn.

31

Lê Doãn Giai

Hậu Lộc

Lê Doãn Giai còn gọi là Doãn Bưu (1714 - ?), quê làng Y Bích, xã Hải Lộc, huyện Hậu Lộc, đỗ Tiến sĩ năm Quý Hợi (1743), chức Hàn lâm Hiệu lý. Ông là người có công trong việc phát triển làng, xã như đã cho làng Vích tiền của để xây dựng lại nghè từ tranh tre nứa lá bằng gạch ngói khang trang.

32

Trịnh Đồng Giai

Thiệu Hóa

Trịnh Đồng Giai (1697 - ?), quê xã Ngọc Hoạch, huyện Thụy Nguyên (nay là thôn Tân Sơn, xã Thiệu Ngọc, huyện Thiệu Hóa). Năm 25 tuổi, ông đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa thi Tân Sửu, niên hiệu Bảo Thái thứ 2 (1721), đời vua Lê Dụ Tông. Ông làm quan đến chức Hàn Lâm viện Đãi chế.

33

Đặng Kim Giám

Hậu Lộc

Đặng Kim Giám (1796 - 1857), quê xã Diêm Phố, huyện Hậu Lộc, đỗ Hương Cống (Cử nhân) năm Tân Tỵ 1821 đời Vua Minh Mạng năm thứ 2, làm Án sát Quảng Bình.

34

Lê Trần Giám

Hoằng Hóa

Lê Trần Giám (1725 - 1804), quê làng Phú Khê, xã Hoằng Phú, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Năm 1745 nhờ tài văn võ song toàn ông được tuyển dụng vào làm quan giữ chức phủ quân Khâm Phụng, sau ông được thăng lên chức Thượng tướng quân làm Đô chỉ huy Sứ, rồi lên chức Thị Vệ Lang tước trung võ hầu.

35

Lê Giám

Đông Sơn

Lê Giám (? - ?), quê xã Đông Ninh, huyện Đông Sơn, làm quan dưới triều Lê Trung Hưng, đến chức Thái Phó Thanh Quốc Công. Khi ông mất, vua gia phong là “Kiệt Tiết tuyên lực, Dương võ uy dũng công thần, Đặc tiến phụ quốc Thượng tướng quân, Cẩm y vệ đô chỉ huy sứ Thị vệ sứ lễ thành hầu trụ quốc trung trật”, ban tên thụy là Trung Mẫn Quận Công. Đền thờ Lê Giám tại làng Hữu Bộc, xã Đông Ninh, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh năm 2013.

36

Phạm Văn Giản

Vĩnh Lộc

Phạm Văn Giản (1919 - 1979), quê thôn Cẩm Bào, xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc. Ông nguyên là chiến sỹ du kích Ngọc Trạo thời kỳ 1941, là Bí thư Huyện ủy đầu tiên của Đảng bộ huyện Thạch Thành từ tháng 11/1945 đến cuối năm 1946. Ông nguyên là Vụ trưởng Vụ Thanh tra Nông nghiệp.

37

Nguyễn Giới

Nga Sơn

Nguyễn Giới (? - ?), quê xã Nga Văn, huyện Nga Sơn. Ông thi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa thi năm Mậu Tuất (1598), dưới triều Lê Thế Tông, làm quan đến chức Hiến sát sứ.

38

Nguyễn Hữu Hanh

Đông Sơn

Nguyễn Hữu Hanh (? - 1930), quê làng Kim Bôi, xã Đông Thanh, huyện Đông Sơn. Năm Nhâm Ngọ (1882) ông thi đậu cử nhân võ, được triều đình Huế triệu vào làm quan. Ông được Tôn Thất Thuyết giao trông coi xây dựng căn cứ Tân Sở ở Quảng Trị. Sau này ông đi theo Tống Duy Tân tham gia xây dựng căn cứ Vân Đồn. Ông tham gia nhiều trận đánh ở Vân Đồn gây cho địch nhiều thiệt hại.

39

Cầm Bá Hiển

Thường Xuân

Cầm Bá Hiển (? - ?), quê huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa, là người dân tộc Thái, vốn sinh ra trong một dòng tộc lớn, nối đời làm lang đạo cai quản vùng miền núi phía tây tỉnh Thanh Hóa. Sau khi mất, được triều đình ban hai chữ “Trung Tiết” để nêu cao tấm lòng trung thành, tiết nghĩa. Ông được triều đình cho xây dựng nhà thờ ông tại quê hương xã Vạn Xuân, huyện Thường Xuân. Cầm Bá Hiển là một trong số 152 người được đặt linh vị ở bàn thờ hai bên gian giữa tại đền Trung Nghĩa, kinh thành Huế. Hiện nay, đền thờ ông được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh.

40

Lê Văn Hiểu

Hoằng Hóa

Lê Văn Hiểu (1477 - ?), quê làng Vĩnh Trị, nay là thôn Vĩnh Trị, xã Hoằng Quang, huyện Hoằng Hóa, nay thuộc thành phố Thanh Hóa. Ông thi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Thìn (1508) niên hiệu Đoan Khánh 4, đời Lê Uy Mục, khi ông 32 tuổi và làm quan đến chức Thiêm đô Ngự sử.

41

Trần Lê Hiệu

Thiệu Hóa

Trần Lê Hiệu (1784 - 1850), quê làng Phủ Lý, huyện Đông Sơn (nay là thôn 4, xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa). Trong kỳ thi Hương, ông đỗ Cử nhân khoa Kỷ Mão, niên hiệu Gia Long thứ 18 (1819), tại trường thi Thanh Hóa. Ông đỗ đồng Tiến sĩ năm 38 tuổi khoa Nhâm Ngọ, niên hiệu Minh Mạng thứ 3 (1822). Ông làm quan đến chức Lang trung ở Bộ công.

42

Trương Hữu Hiệu

Quảng Xương

Trương Hữu Hiệu (1632 - 1696), quê làng Thiên Linh, huyện Ngọc Sơn, nay là thôn Yên Cảnh, xã Quảng Yên, huyện Quảng Xương. Năm 45 tuổi, Trương Hữu Hiệu dự thi khoa Bính Thìn, niên hiệu Vĩnh Trị thứ 1 (1676) đời vua Lê Huy Tông, đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, làm quan đến chức Giám sát Ngự sử.

43

Nguyễn Gia Hòa

Thành phố Thanh Hóa

Nguyễn Gia Hòa (? - ?), quê làng Từ Quang, xã Hoằng Long cũ, nay là phường Long Anh, thành phố Thanh Hóa. Thuở nhỏ có dũng khí, mưu lược, lớn lên ông tòng quân, được vào đội Túc vệ, có tài thao lược nên thăng chức Chỉ huy sứ, nhiều lần lập công, đương thời nổi danh là bậc tướng giỏi. Thời Lê niên hiệu Vĩnh Tộ (1619 - 1629), ông được phong tước Thủy Quận Công, được Nhân dân trong làng lập đền thờ và có bia ghi công trạng của ông (Đền thờ đã được xếp hạng di tích cấp tỉnh năm 2011).

44

Nguyễn Chí Hòa

Đông Sơn

Nguyễn Chí Hòa (1755 - 1818), quê huyện Đông Sơn, ông làm quan dưới triều Vua Gia Long, trải qua thời gian được nhận chức hiệp trấn các xứ Tuyên Quang, Sơn Nam, Hải Dương .... ông mất ở Hải Dương, thọ 63 tuổi. Khi mất được phong tặng Đoan Nha Công Thần, Thông Chương Đại Phu, Tư chính thương khanh.... Tước Thọ Như Hầu, tên Thụy là Trung Thanh. Đền thờ Thọ Như Hầu Nguyễn Chí Hòa nằm ở thôn Phúc Triền, xã Đông Thanh, huyện Đông Sơn, được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh năm 2011.

45

Lý Công Hoằng

Hậu Lộc

Lý Công Hoằng (? - ?), quê huyện Hậu Lộc, là một trong 03 ông tướng họ Lý tham gia khởi nghĩa Bà Triệu năm 248. Hiện tại, mộ của 3 ông vẫn còn ở chân núi Tùng, xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc - là một trong những điểm của quần thể di tích lịch sử văn hóa và kiến trúc nghệ thuật đền Bà Triệu.

46

Nguyễn Hoành

Quảng Xương

Nguyễn Hoành (1741 - ?), quê làng Thiên Linh Đông (nay là xã Quảng Yên), huyện Quảng Xương. Nguyễn Hoành tức Nguyễn Viết Hoành, năm Bính Ngọ (1786), ông thi trường Nghệ An, đỗ Hương Cống, làm Cai huyện Nông Cống. Năm 1790, ông vào kinh đô Phú Xuân thi Y khoa và đỗ đầu. Ông được vua Quang Trung sai giữ y vụ kiêm Ngự y chính rồi Chánh cục Nam dược cục. Ông có công biên soạn sách “Nam dược bản thảo”, chỉnh lý tập “Y học nhập môn ca” của Viện Thái y đời Hậu Lê thành “Y học toát yếu quốc ngữ ca”.

47

Nguyễn Gia Hoành

Thành phố Thanh Hóa

Nguyễn Gia Hoành (? - ?), quê làng Từ Quang, xã Hoằng Long cũ, nay là phường Long Anh, thành phố Thanh Hóa, đỗ Ân khoa năm Mậu Thân (1848) đời Vua Tự Đức. Ông làm quan Tri huyện.

48

Nguyễn Trọng Hoành

Hoằng Hóa

Nguyễn Trọng Hoành (? - ?), quê xã Bột Thái (nay thuộc xã Hoằng Lộc), huyện Hoằng Hóa, là con thứ của Tiến sĩ, Tham tụng, Quận công Nguyễn Ngọc Huyền. Nguyễn Trọng Hoành thi đỗ Hương cống khoa Ất Mão, niên hiệu Long Đức thứ 4 (1735). Ông có công dẹp cuộc nổi dậy của Hoàng Công Toản, được điều về Kinh, thăng Thượng thư bộ Hộ, tước Tình Phái hầu. Khi ông mất được tặng phong Thái tử Thái bảo, Thượng trụ quốc, Thượng trật.

49

Nguyễn Hữu Hồng

Thị xã Nghi Sơn

Nguyễn Hữu Hồng (? - ?), quê thị xã Nghi Sơn, ông có công phò vua Lê Trung Hưng, đời Lê Cảnh Hưng, được phong Dũng lực tướng quân, Trung liệt Đại tướng quân, hiệu Tư tráng sỹ. Ông có công khai cơ lập nghiệp, đắp đê ngăn mặn, lấy đất cấy lúa nên được dân làng phụng thờ. Đền thờ ông nay thuộc thôn Phượng Cát, xã Thanh Thủy. Di tích được xếp hạng là di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.

50

Vũ Thị Huệ

Thành phố Thanh Hóa

Vũ Thị Huệ (? - ?), quê làng Từ Quang, xã Hoằng Long cũ, nay là phường Long Anh, thành phố Thanh Hóa. Bà là Cung Phi dưới triều vua Lê Thánh Tông, là vú nuôi của Vua Lê Hiến Tông và các công chúa, hoàng tử triều Vua Lê Thánh Tông. Bà còn có công xây dựng cho làng Từ Quang 12 bến nước để tạo cảnh đẹp cho làng và tạo sự giao lưu giữa làng quê và sông nước. Lúc bà mất được ban sắc phong làm Phúc thần. Nhớ công ơn bà, Nhân dân trong làng lập Phủ thờ Đức Bà với Duệ hiệu “Cố mẫu nhũ hương Vũ Thị Huệ".

51

Nguyễn Huy

Vĩnh Lộc

Nguyễn Huy (? - ?), quê xã Thiên Vực, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Năm Minh Mạng thứ 12 (1831) ông thi đỗ Hương tiến tại trường thi Thanh Hóa. Sau đó ông được bổ dụng làm Tri huyện Bảo Lộc và Thanh Sơn rồi chuyển sang làm Tri phủ Quảng Ninh. Trải qua nhiều năm làm Tri phủ nhiều nơi, ông được về kinh thành giữ chức Giám sát Ngự sử. Năm Tự Đức thứ 17 (1864) ông được phong Biện lý bộ Công, thăng chức Quang lộc tự khanh.

52

Hà Phạm Huy

Yên Định

Hà Phạm Huy (? - ?), quê làng Đan Nê (nay thuộc xã Yên Thọ, huyện Yên Định) đậu cử nhân năm 27 tuổi, khoa Nhâm Tý 1912, từng làm quan trong Quốc sử quán triều Nguyễn, sau ra làm tri huyện. Vì có tính cương trực và hay châm biếm nên cả thực dân Pháp và Nam triều đều không ưa. Vì chán cảnh đời no thuộc, ông từ quan để sáng tác thơ văn để chế giễu cảnh đời éo le, giả dối lúc đương thời. Nhiều bài thơ mà con cháu trong dòng họ sưu tầm, tập hợp qua nhiều sách, báo cũ rất ý nghĩa.

53

Trịnh Cảnh Huy

Yên Định

Trịnh Cảnh Huy (? - ?), quê làng Chân Bái (nay thuộc xã Yên Bái, huyện Yên Định). Ông đã làm tới chức Tả đô đốc vệ cẩm y để bảo vệ hành cung Vạn Lại - Yên Trường (hồi thế kỷ XVI). Trong một lần nhà Mạc mang 700 chiến thuyền vào đánh căn cứ Biện Thượng (Vĩnh Lộc nay) với ý đồ mở đường đánh chiếm kinh đô Vạn Lại - Yên Trường của nhà Lê - Trịnh, ông được giao trọng trách chỉ huy một lực lượng lớn án ngữ mai phục ở hai bờ sông Lèn (gần ngã ba Bông) để chờ khi quân địch đến thì đánh tập kích bất ngờ làm lực lượng thủy quân nhà Mạc tan tác tháo chạy hỗn loạn. Vì vậy, ông được phong đến chức Phụ quốc thượng tướng quân, tước Hoàng Quận công. Khi mất được thờ ở đền Hàn Sơn (Hà Sơn, Hà Trung).

54

Đỗ Khải

Thiệu Hóa

Đỗ Khải (? - ?) quê làng Phùng Thịnh, huyện Thụy Nguyên (nay là xã Thiệu Thịnh, huyện Thiệu Hóa). Trong kỳ thi Hương, ông đỗ cử nhân khoa Mậu Thân, niên hiệu Tự Đức thứ 1 (1848), tại trường thi Thanh Hóa. Ông đỗ Phó bảng khoa Kỷ Dậu, niên hiệu Tự Đức thứ 2 (1849). ông làm quan đến chức Tri huyện.

55

Nguyễn Khải

Đông Sơn

Nguyễn Khải (? - ?), quê xã Đông Thanh, huyện Đông Sơn, là người có công giúp nhà Lê diệt nhà Mạc. Dưới thời Vua Lê Kính Tông (1600-1619), Nguyên Khải được phong “Hiệp mưu dương võ công thần, trung quân đô đốc phủ, phó tướng Đăng Quận Công”, rồi thăng lên Thái Bảo, Binh bộ Thượng Thư. Đến thời vua Lê Thần Tông (1619 - 1643), ông giữ chức Thái phó, Binh bộ Thượng thư, bậc “quốc lão tham dự triều chính”. Đền thờ Nguyễn Khải được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh năm 2011.

56

Trịnh Tứ Khải

Yên Định

Trịnh Tứ Khải (? - ?), quê thôn Hổ Bái, xã Yên Bái, huyện Yên Định, ông là con trai của Trịnh Mãi. Thời vua Lê Tương Dực (1509 - 1516), Trịnh Tứ Khải được giữ chức quan Xa Vệ thần vũ, điện tiền chỉ huy lực lượng thiện nghệ bảo vệ kinh đô. Đến đời vua Lê Chiêu Tông (1516 - 1522), ông được phong là phụ quốc thượng tướng quân. Khi mất ông được gia phong là Thái Bảo quốc công, thọ 67 tuổi, được triều đình cho lập đền thờ để dân thờ tự.

57

Lê Bá Khang

Thiệu Hóa

Lê Bá Khang (? - ?) quê Phủ Lý, huyện Đông Sơn (nay là thôn 4, xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa). Ông đỗ Tiến sĩ khoa Tân Mùi, niên hiệu Hồng Thuận thứ 3 (1511), đời vua Lê Tương Dực. Ông làm quan đến chức Tham chính.

58

Khằm Ban

Quan Hóa

Khằm Ban (? - ?)[216], ông gốc họ Phạm thuộc dòng họ Phạm Tộc thần từ bi dựng niên hiệu Duy Tân thứ 1 (1907), đây vốn là một dòng họ lớn trong ngũ châu. Ông là thủy tổ dòng họ Phạm ở đất Mường Đà. Thuở nhỏ ở trong Phá Khâm (thuộc vùng Hồi Xuân ngày nay), nghe vua Lê Thái Tổ khởi nghĩa bình định giặc Ngô (Minh), ông bèn soái lĩnh quân giúp nước, trải qua nhiều trận có công, vua phong cho là Thống Lĩnh Thượng Tướng quân. Ông có công đánh đuổi quân Minh ở Trường Khu, xuất trại viện lập trụ Đồng phân mốc ở đỉnh cao Phân Mao (biên giới Việt Lào ngày nay), vì thế mà việc hai nước được bình. Sau đó ông từ quan trở về quê hương, vua Lê nhớ về công lao của ông bèn lệnh cho Tiến Sĩ là Phò Mã đang trấn giữ phương Nam tiễn ông trở về. Ông đã đi các nơi trên vùng Thượng du chọn đất làm thái ấp riêng, đã tìm từ vùng Kim Trĩ trở lên đều không có đất nào có thể khai cơ lập nghiệp. Một ngày đồn trú doanh trại ở cửa sông Lò, thấy đất Hồi Xuân có núi Xuân Sơn phía sau, ông xin vua ban cho thái ấp ở vùng này (Hồi Xuân). Khi ông mất, Nhân dân bầu hậu làm Phúc thần lập đền thờ cúng, đền thờ ông ở Hồi Xuân đã được xếp hạng di tích cấp tỉnh.

59

Lê Khiêm

Triệu Sơn

Lê Khiêm (1541 - 1623), quê xã Bảo Đà, huyện Lôi Dương (nay là xã Thọ Dân, huyện Triệu Sơn), ông đỗ Đệ nhất giáp Chế khoa Ất Tỵ (1565) đời vua Lê Anh Tông, làm chức Tham chính, tước Hầu (đây là Chế khoa niên cũng có sách ghi đỗ Tiến sĩ).

60

Nguyễn Đăng Khoa

Đông Sơn

Nguyễn Đăng Khoa (? - ?), quê xã Đông Hòa, huyện Đông Sơn, làm quan dưới triều Lê Trung Hưng, được phong là Bậc Đôn hậu dực vận tán trị công thần; sau tiến phong là bậc kim tử vinh lộc đại phu, ty lễ giám, chưởng giám kiêm các giám ty sứ, trung quân đô đốc, phủ tả đô đốc, trấn thủ xứ Thanh Hoa, tước Thọ Quận Công. Từ đường họ Nguyễn Đăng thờ Quận Công Nguyễn Đăng Khoa trên địa phận xã Đông Hòa, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh năm 1999.

61

Nguyễn Văn Khuê

Thành phố Thanh Hóa

Nguyễn Văn Khuê (? - ?), quê xã Bất Quần, huyện Quảng Xương (nay là phường Quảng Thịnh, thành phố Thanh Hóa). Năm 1610, ông đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân.

62

Lê Bá Khuê

Thành phố Thanh Hóa

Lê Bá Khuê (? - ?), quê Lam Sơn, sau chuyển xuống làng Bố Vệ nay thuộc phường Đông Vệ, tiến sĩ xuất thân khoa thi Mậu Thìn (1508) thời vua Lê Uy Mục, là người có công xây cầu Anh (nay là cầu Kiều Đại 1) bắc qua sông nhà Lê, được ghi công như một phúc thần của làng.

63

Lại Văn Khuông

Hà Trung

Lại Văn Khuông (? - ?), quê xã Hà Dương, huyện Hà Trung. Ông sống cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII, làm quan dưới thời chúa Nguyễn và là người có công được phong tới chức Khiêm Võ Hầu.

64

Bình Khương

Vĩnh Lộc

Nàng Bình Khương (? - ?), quê huyện Vĩnh Lộc. Đền nàng Bình Khương thuộc thôn Đông Môn, xã Vĩnh Long có sự tích liên quan trực tiếp đến lịch sử xây dựng Thành nhà Hồ.

Tương truyền, nàng Bình Khương khi nghe tin chồng đã bị chôn sống liền tìm tới động An Tôn. Khi biết chồng đã chết, nàng Bình Khương đau khổ và uất hận vô cùng đã đập đầu vào đá để kêu oan cho chồng. Trước cái chết tiết liệt của nàng Bình Khương, triều đình xem xét tìm nguyên nhân tại sao bức tường thành phía Đông cứ xây lên cao lại bị đổ và nguyên nhân chính là do dưới chân đoạn tường thành phía Đông có địa chất không ổn định, có mạch nước ngầm lớn thường có cát đùn nên đoạn tường cứ xây xong lại bị sụt lở. Để khắc phục sự cố đó, Hồ Nguyên Trừng con trai của Hồ Quý Ly, tổng chỉ huy xây thành đã cho lát một phiến đá to, rộng dưới chân móng và xây lên. Năm 1903, tổng đốc Thanh Hóa là Vương Duy Trinh một đêm nằm mộng gặp một người con gái khóc lóc kêu oan cho chồng mình. Tỉnh giấc, ông bèn hỏi thăm trong vùng và được biết người con gái đó là nàng Bình Khương vì vậy ông đã cho quyên tiền xây dựng ngôi đền khang trang, đồng thời cho dựng bia tại đền ghi lại sự tích Cống Sinh - Bình Khương cùng với vần thơ ca ngợi: Tấm lòng trinh tiết in vào đá/ Lưu mãi muôn đời vạn tiếng thơm.

65

Vũ Kiêm

Thiệu Hóa

Vũ Kiêm (1615 - 1683), quê làng Phủ Lý, huyện Đông Sơn (nay là thôn 4, xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa). Năm 22 tuổi, ông đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Bính Tuất, niên hiệu Phúc Thái thứ 4 (1646), đời của Lê Chân Tông. Ông làm quan đến chức Tham chính Sơn Tây. Trải qua 4 đời vua Chân Tông, Thần Tông, Huyền Tông, Gia Tông, ông chủ yếu làm việc ở ngoài triều, được sử sách đánh giá là người mẫn cán, xử việc công minh, có lối sống giản dị được Nhân dân kính trọng.

66

Phan Huy Kiêm

Thị xã Nghi Sơn

Phan Huy Kiêm (? - ?), quê xã Hải Châu, huyện Ngọc Sơn (nay là phường Hải Châu, thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa). Tên tự là Kỷ Chi, ông đỗ kỳ thi hương năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), được đưa vào giữ chức Kiểm thảo Hàn Lâm viện. Ông là vị quan có năng lực, trải qua các chức. Sau được thăng lên chức Thị lang Bộ hộ, kiêm quản Ấn triện Đô sát viện. Sau khi mất, được truy thụ là Tả phó đô Ngự sử.

67

Nguyễn Di Kiệt

Hậu Lộc

Nguyễn Di Kiệt (1459 - ?), quê làng Y Bích - Hải Lộc, huyện Hậu Lộc, thi đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân năm Canh Tuất, đời vua Lê Thánh Tông (1490), làm quan đến chức Lại bộ Tả Thị lang.

68

Lê Nhân Kiệt

Triệu Sơn

Lê Nhân Kiệt (1635 - ?), quê xã Cổ Định, huyện Nông Cống (nay là thị trấn Nưa, huyện Triệu Sơn). Ông đỗ Tiến sĩ khoa Tân Sửu (1661) đời vua Lê Thần Tông lúc 24 tuổi, làm chức Hình khoa đô cấp sự trung, Tước nam.

69

Lê Kim

Thị xã Nghi Sơn

Lê Kim (? - ?), quê làng Kim Cốc, xã Mai Lâm, thị xã Nghi Sơn. Ông là con trai Lê Nhân Quý, làm quan hàng Tam phẩm rồi phó tướng, Kim đô chỉ huy sứ, tước Nam khi mất được vua phong Minh nghĩa công thần trụ quốc Thượng tướng quân. Ông còn có công khai hoang mở ấp, đắp đê ngăn mặn (đê Hoàng Các) góp phần hưng thịnh cả một vùng rộng lớn.

70

Nguyễn Kính

Thành phố Thanh Hóa

Nguyễn Kính (1629 - ?), quê làng Nguyệt Viên, xã Hoằng Quang, huyện Hoằng Hóa, nay là thành phố Thanh Hóa. Năm 33 tuổi ông đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Tân Sửu (1661) đời Vua Lê Thần Tông. Ông làm quan đến chức Giám sát.

71

Lê Khắc Kỷ

Hoằng Hóa

Lê Khắc Kỷ (1610 - ?), quê làng Phù Quang, xã Hoằng Quang, huyện Hoằng Hóa, nay là thành phố Thanh Hóa. Ông đỗ Tam Giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Bính Tuất (1646) niên hiệu Phúc Thái thứ 4 đời Lê Nhân Tông, sau được phong làm Giám sát Ngự Sử.

72

Nguyễn Đồng Lâm

Thiệu Hóa

Nguyễn Đồng Lâm (1679 - ?) quê làng Ngọc Hoạch, huyện Thụy Nguyên (nay là thôn Tân Sơn, xã Thiệu Ngọc, huyện Thiệu Hóa). Ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Dần, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 6 (1710), đời vua Lê Dụ Tông. Ông làm quan đến chức Giám sát Ngự sử.

73

Lê Xuân Lan

Hoằng Hóa

Lê Xuân Lan (1916 - 1983), quê thôn Đông Thành, xã Hoằng Tiến, là một nhà giáo tâm huyết, được các thế hệ học sinh và Nhân dân quý trọng. Ông thuộc tốp người đầu tiên của tổng Ngọc Chuế đậu Prime (tiểu học) và đậu Đíp - lôm (Trường học cơ sở) thời Pháp thuộc. Không chỉ là thầy giáo giỏi, ông còn là cán bộ cách mạng kiên trung, là một trong những lãnh đạo chủ chốt tiền bối của quê hương Hoằng Hóa, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến huyện từ tháng 6/1950 - 7/1954. Tên ông được đặt cho Quỹ Khuyến học Lê Xuân Lan được thành lập ngày 28/8/2008 theo Quyết định số 1883/QĐ-UBND của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Hoằng Hóa nhằm mục đích, ý nghĩa khuyến học, khuyến tài, đặc biệt là những học sinh nghèo vượt khó, góp phần ươm mầm tài năng, tạo nguồn nhân lực chất lượng cao xây dựng quê hương, đất nước.

74

Trần Lê Lân

Triệu Sơn

Trần Lê Lân (1694 - ?), quê xã Tam Lộng, huyện Lôi Dương (nay là xã Xuân Thọ, huyện Triệu Sơn), ông đỗ Tiến sĩ khoa Tân Hợi (1731) đời vua Lê Duy Phường khi 38 tuổi, làm quan đến chức Hàn lâm đãi chế.

75

Đào Lang

Yên Định

Đào Lang (? - ?), quê làng Bùi Đỉnh nay thuộc xã Yên Phú, huyện Yên Định. Theo thần tích ở nghè thờ ông tại làng cho biết ông là vị tướng dưới 2 triều Đinh - Tiền Lê. Người có công dẹp loạn 12 sứ quân cho Đinh Bộ Lĩnh và có công giúp Lê Hoàn đánh Tống Bình Chiêm. Năm 983, ông được Lê Hoàn giao trọng trách chỉ huy việc đào kênh Đồng Cổ để mở đường Nam tiến như sử sách xưa ghi chép. Chính Đào Lang cũng là người có công lập ra làng Bùi Đỉnh nên khi mất được dân lập đền thờ và tôn vinh là Thành Hoàng làng.

76

Yên Đôn Lễ

Yên Định

Yên Đôn Lễ (1512 - 1574), quê thôn Phúc Thôn, xã Định Long, huyện Yên Định. Ông thi đỗ tiến sĩ niên hiệu Đại Chính thứ 3 (1532) đời Mạc Đặng Dung. Ông làm quan đến chức thượng thư bộ binh, được phong tước hầu. Năm 63 tuổi, ông mất được triều đình ban tước Khuông quận công vào thế kỷ XVI.

77

Trần Nghĩa Lộ

Hậu Lộc

Trần Nghĩa Lộ (? - ?), quê Bái Hà Xuân, nay thuộc xã Xuân Lộc, huyện Hậu Lộc, đỗ Tiến sĩ năm Kỷ Mùi (1499) làm quan chức Tự Khanh.

78

Tống Sư Lộ

Triệu Sơn

Tống Sư Lộ (1473 - ?), quê Tân Mộc, huyện Nông Cống (nay là xã Dân Lực, huyện Triệu Sơn). Ông đỗ Tiến sĩ khoa Ất Sửu (1505) đời vua Lê Uy Mục lúc 33 tuổi, từng giữ chức Tham chính.

79

Phạm Phúc Lộc

Cẩm Thủy

Phạm Phúc Lộc (? - ?), quê huyện Cẩm Thủy, Lê triều Thái Bảo điện tiền tả tướng quân là Tả Đô đốc Phủ Khải Minh hầu Phạm Tướng công, vì có công trung hưng lại nhà Lê nên được triều đình nhà Lê Trung Hưng phong tước hầu.

80

Lê Quang Lộc

Vĩnh Lộc

Lê Quang Lộc (? - ?), quê huyện Vĩnh Lộc. Theo thần phả Đền Đề Lĩnh, di tích đã được xếp hạng quốc gia, gia phả dòng họ Lê ở làng Bồng Báo, xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc, Tướng công Đền Đề Lĩnh Lê Công Quang Lộc tên là Lê Quang Lộc, người làng Bồng Báo, xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Ông là một võ tướng thời Lê, có tước quan được xếp hạng “Tứ trụ triều đình” thời vua Lê Tương Dực (1510 - 1516). Năm 25 tuổi, ông được Vua giao khai phá và trấn giữ vùng cửa biển xung yếu Sầm Sơn. Ông dựng làng, khai mở đất luyện binh, dạy võ và lập gia thất. Vì vậy, ông được phong là Tổ sư lò võ vật làng Lương Trung nổi tiếng xứ Thanh; ngoài ra, ông còn dạy cho Nhân dân trong vùng làm bánh dày. Khi ông mất, vua cho lập đền thờ trên vùng đất tối linh từ của làng Lương Trung, giao cho Nhân dân bốn mùa cúng tế và mở hội làng tưởng niệm hàng năm vào ngày giỗ chính kỵ của Ngài. Ngôi đền thờ tướng công Lê Quang Lộc chính là đền Đề Lĩnh thuộc thôn Trung, xã Lương Niệm, phủ Quảng Xương, nay là tổ dân phố Khanh Tiến, phường Trung Sơn, thành phố Sầm Sơn.

81

Lê Thị Lự

Thị xã Nghi Sơn

Lê Thị Lự (? - ?), quê thị xã Nghi Sơn, hiệu là Khánh Duyên, là công chúa hiển linh được Nhân dân làng Lê (phường Hải Hòa) thờ phụng. Sinh thời, bà nổi tiếng là một người vợ đảm đang, trinh thục, giữ trọn trinh tiết với chồng. Sau khi mất, vì bà rất linh ứng, thường giúp đỡ, phù hộ che chở cho Nhân dân sống yên ổn làm ăn, mùa màng tươi tốt nên bà được Nhân dân tôn làm Thành Hoàng làng. Năm Cảnh Hưng thứ 14 (1753), bà được vua Lê Hiển Tông phong sắc: “Đại Quận nhu thuận địch huệ phu hữu hiển linh diên huống từ nhân thụy Khánh Duyên công chúa hiển linh tôn thần”. Đến thời Nguyễn, niên hiệu Khải Định thứ 2 (1918) bà được phong "Trai tĩnh trung đẳng thần”, niên hiệu Khải Định thứ 9 (1924) được gia phong: “Trang hy thượng đẳng thần”. Bà có công trong việc khai canh, định cư, lập làng mở mang làng Lê để khai cơ lập nghiệp. Bà còn giúp dân trồng trọt, làm ăn sinh sống góp phần xây dựng và phát triển vùng đất Lê Xá nay là tổ dân phố Vinh Tiến, phường Hải Hòa, thị xã Nghi Sơn. Di tích được xếp hạng là di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.

82

Lê Luân

Thọ Xuân

Lê Luân (? - 1454) quê xã Xuân Thiên, huyện Thọ Xuân. Một võ quan có đóng góp cho khởi nghĩa Lam Sơn. Từ năm Giáp Thìn (1424) đến năm Đinh Mùi (1427), ông là một võ tướng luôn xông pha trên các chiến trường như: Trận đánh Khả Lưu (Nghệ An), Tốt Động (Hà Nội), Chi Lăng, Xương Giang (Lạng Sơn, Bắc Giang). Tháng 2 năm Mậu Thân (1428), vua ban thưởng, Lê Luân được phong Thiếu úy đồng tổng quan, Vệ Thiên Quan đại tri phủ.

83

Trịnh Minh Lương

Yên Định

Trịnh Minh Lương (1644 - ?), quê làng Chân Bái (thôn Hổ Bái), xã Yên Bái, nay thuộc xã Yên Trường, huyện Yên Định. Ông đỗ khoa thi Hương năm 1679, đỗ đầu kỳ thi tỉnh, thi Hội ông đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Canh Thân 1680 đời vua Lê Huy Tông. Làm quan đến chức Hiến sát sứ. Khi mất được phong phúc thần.

84

Nguyễn Thất Lý

Hà Trung

Nguyễn Thất Lý (? - 1592), quê làng Bình Lâm, xã Hà Lâm, huyện Hà Trung. Ông theo Tổng tiết chế Trịnh Tùng, đánh dẹp Mạc được phong Thượng tướng quân, tước Thái Quận công. Năm 1591, ông được phong chức Đề đốc thân quân thần vũ, Tứ vệ quân vụ, Khâm sai tiết chế thủy binh, Thái bảo. Năm 1592, Nguyễn Thất Lý được thăng chức tả thủy vệ kiêm Tứ vệ quân vụ.

85

Trình Minh

Thọ Xuân

Trình Minh (? - ?), quê làng Trung Lập, xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân, ông là người ham học, tinh thông võ nghệ, là khởi tổ của dòng họ Trình ở làng Chuế Khu xưa và là người có công lập nên làng Ngọc Xuyết Khu (còn gọi là Kim Xuyết, Ngọc Xuyết) ngày nay gọi là thôn Ngọc Chuế, xã Hà Châu, huyện Hà Trung. Người có công giúp vua Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân ở thế kỷ thứ X, được triều Lý phong cho chức “Tự khanh, tên chữ là Phúc Nhạc, Trung đẳng thần”. Dưới thời Lê - Nguyễn, ông còn được nhà vua phong sắc ca ngợi công đức, đặc biệt còn được phong Thần Hoàng làng Ngọc Xuyết.

86

Lý Công Mỹ

Hậu Lộc

Lý Công Mỹ (? - ?), quê huyện Hậu Lộc, là một trong 03 ông tướng họ Lý tham gia khởi nghĩa Bà Triệu năm 248. Hiện tại mộ của 3 ông vẫn còn ở chân núi Tùng, xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc.

87

Trương Công Mỹ

Yên Định

Trương Công Mỹ (? - ?), quê huyện Yên Định, là người có công trong hai lần kháng chiến chống Nguyên Mông, được vua Trần gả con gái là công chúa Bạch Mã. Hai người được phong đất ở vùng Kiểu (nay thuộc xã Yên Trường, huyện Yên Định). Khi mất, ông được dân lập đền thờ và phong làm Thành Hoàng của làng.

88

Nguyễn Trung Nghĩa

Đông Sơn

Nguyễn Trung Nghĩa (? - ?) quê xã Đông Yên, huyện Đông Sơn, ông là người có công tham gia khởi nghĩa Lam Sơn cùng Lê Lợi chống giặc Minh thế kỷ XV. Kháng chiến thắng lợi, ông được phong ấp tại Mộc Nhuận cùng Tuy Quốc Công Nguyễn Nhữ Soạn. Ông là người có công khai hoang lập ấp lập ra làng Trung Bình Đông (thôn Yên Bằng, xã Đông Yên ngày nay). Khi ông mất, được Nhân dân tôn thờ là Thành Hoàng làng. Đền thờ Nguyễn Trung Nghĩa được xếp hạng là di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh năm 2006.

89

La Thế Nghiệp

Hậu Lộc

La Thế Nghiệp (1485 - ?), quê xã Lục Trúc, nay thuộc xã Phú Lộc, huyện Hậu Lộc, đỗ Tiến sĩ khoa Tân Mùi năm 1511 đời vua Lê Tương Dực, làm quan đến chức Hiến sát sứ.

90

Lê Thị Ngọc Ngỗi

Hoằng Hóa

Chính vương Lê Thị Ngọc Ngỗi (1606 - ?), quê xã Phú Vinh nay là xã Hoằng Vinh, huyện Hoằng Hóa, tên húy là Bảo Đức, năm 19 tuổi được dâng vào phủ Chúa làm Vương phi chúa Thanh Đô vương Trịnh Tráng. Năm Đức Long 3 (1631), bà sinh ra Phó đô tướng Thái úy Ninh Quốc công Trịnh Toàn. Bà cho hưng công tu tạo cầu Cộng ở quê hương.

91

Lê Thận Ngôn

Hoằng Hóa

Lê Thận Ngôn (1834 - 1897), tên tự là Cổ Đam, tên húy là Thận Ngôn, người làng Cát Xuyên, xã Hoằng Cát, huyện Hoằng Hóa. Ông đỗ cử nhân khoa thi năm Tân Dậu, niên hiệu Tự Đức thứ 14 (1861) được bổ làm Giáo thụ phủ Trùng Khánh tỉnh Cao Bằng sau được bổ chức Giáo thụ phủ Quảng Hóa.

92

Trần Hữu Nho

Thiệu Hóa

Trần Hữu Nho (? - ?) quê làng Cổ Đô, huyện Đông Sơn (sau thuộc xã Thiệu Đô, nay thuộc thị trấn Thiệu Hóa). Ông đỗ Hoàng giáp khoa Canh Tuất, niên hiệu Hồng Đức thứ 21 (1490), đời vua Lê Thánh Tông. Làm quan đến chức Lại bộ Tả thị lang.

93

Tống Nho

Triệu Sơn

Tống Nho (1638 - ?), quê Tiên Mộc, huyện Nông Cống nay là xã Dân Lực, huyện Triệu Sơn. ông đỗ Tiến sĩ khoa Canh Tuất (1670) đời vua Lê Huyền Tông lúc 33 tuổi, từng giữ chức Tham chính.

94

Lê Đình Nhơn

Yên Định

Lê Đình Nhơn[217] tức Quản Phơn (? - ?), quê làng Thiết Đanh nay thuộc xã Định Tường, huyện Yên Định. Khi vua Hàm Nghi ban chiếu Cần Vương chống Pháp xâm lược, ông trở về quê tập hợp lực lượng để hưởng ứng. Sau hội nghị Bồng Trung (1885), ông được phân công đi xây dựng căn cứ Mã Cao dưới sự chỉ huy của Hà Văn Nhất và Trần Xuân Soạn rồi được phân công phụ trách chỉ huy đồn “Đa Nẫm” (nay thuộc xã Yên Giang, huyện Yên Định). Từ Đa Nẫm, ông được lệnh mang quân đi tập kích địch ở Dọc Nghè (Định Tường) rồi thừa thắng tấn công đồn Si (Định Bình) nhưng vì lực lượng chênh lệch, ông bị giặc pháp bắt và chém đầu ở vườn quýt (bêu đầu cầu Si).

95

Đội Nhữ

Thành phố Sầm Sơn

Đội Nhữ (18?? - 18??), quê làng Trường Lệ nay thuộc phường Quảng Vinh, thành phố Sầm Sơn. Đội Nhữ hay còn gọi là Đề Đởn, tên thật là Hoàng Đình Đởn là cử nhân võ thời vua Tự Đức. Năm 1885, sau khi cuộc phản công tại kinh thành Huế thất bại, ông là người đã hộ giá vua Hàm Nghi bỏ kinh thành ra vùng rừng núi, phát chiếu Cần Vương chống Pháp. Sau khi vua Hàm Nghi bị bắt trở về kinh thành, ông theo Tôn Thất Thuyết và Trần Xuân Soạn chạy về Thanh Hóa. Cuối thế kỷ XIX, Thanh Hóa là một trong những địa phương có phong trào Cần Vương bùng nổ mạnh mẽ khắp nơi, các trung tâm khởi nghĩa phát triển rộng khắp với việc hình thành các đội nghĩa quân dưới sự chỉ huy của các sĩ phu, văn thân yêu nước. Đội Nhữ được Tôn Thất Thuyết và Trần Xuân Soạn giao nhiệm vụ liên hệ để hợp nhất các cánh quân của Quảng Xương như cánh quân của Đề đốc Mậu Quang Tiền, cánh quân của Quảng Nham, Cự Nham...

96

Lê Khắc Nhượng

Nông Cống

Lê Khắc Nhượng (1476 - ?), quê huyện Nông Cống. Ông là anh Hoàng giáp Lê Đình Vệ, người làng Thổ Giá huyện Nông Cống, nay là Thổ Vị, xã Tế Thắng, huyện Nông Cống, thi đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa thi Mậu Thìn niên hiệu Đoan Khánh thứ 4 (1508) đời Lê Uy Mục, làm quan chức Hữu thị lang. Về sau, con cháu có di dời lên sống tại Bồng Thượng, xã Vĩnh Hùng, thành lập chi họ Lê Đình trên vùng đất này.

97

Nguyễn Duy Nịnh

Thị xã Nghi Sơn

Nguyễn Duy Nịnh (? - ?), quê xã Thanh Sơn, thị xã Nghi Sơn. Ông tham gia triều chính đời vua Lê Thần Tông, có công phò vua giúp nhà Lê mở mang đất nước, củng cố bờ cõi. Ông làm quan đến chức thị hầu nội tiếp, làm Tổng trấn Thanh Hóa, được phong Phấn lực tướng quân, chức quan “Thiên hộ”. Ông có công phá giặc ở Sơn Nam được triều đình ban thưởng, được triều đình phong kiến ban tặng 6 sắc phong, được phụng thờ theo điển lễ. Đền thờ Nguyễn Duy Nịnh được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.

98

Yên Đôn Phác

Yên Định

Yên Đôn Phác (1512 - ?), quê huyện Yên Định. Ông đỗ tiến sĩ năm Tân Sửu 1541 niên hiệu Quảng Hòa thứ 1 đời Mạc Phúc Hải. Ông làm quan đến chức Lễ bộ Thượng thư và được ban tước Ninh Khê Hầu.

99

Nguyễn Phan

Hoằng Hóa

Nguyễn Phan (1711 - 1784), quê Hà Dương, Hoằng Đạt, huyện Hoằng Hóa. Ông là một công thần cuối thời Lê - Trịnh, một nhà quân sự có tài, đánh đâu thắng đó, góp phần vào sự ổn định tình hình xã hội phong kiến Đàng Ngoài trong những năm giữa thế kỷ XVIII. Trong 37 năm theo cuộc đời binh nghiệp, ông đã được triều đình phong kiến Lê - Trịnh phong chức 34 lần và tặng thưởng 24 ngân bài.

100

Phạm Phổ

Hậu Lộc

Phạm Phổ (? - ?), quê xã Trương Xá cũ, huyện Hậu Lộc, đỗ cử nhân (Hương Cống) năm 1821, làm tới chức Bố Chánh Tuyên Quang. Ông là cha Phạm Thanh, Phạm Bành.

101

Nguyễn Đình Phổ

Thiệu Hóa

Nguyễn Đình Phổ (? - ?), quê huyện Thụy Nguyên (nay là huyện Thiệu Hóa), ông còn có tên là Nguyễn Đình Định. Xuất thân trong gia đình dòng dõi binh nghiệp, năm 1802 ông tham gia quân thứ giữ chức Cai Đội. Nguyễn Đình Phổ từng được bổ dụng chức Trấn thủ 2 trấn Hải Dương và Thanh Ba (Thanh Hóa). Sau làm Tổng đốc Ninh - Thái, năm 1834 đánh dẹp loạn đảng, sau đó ốm mất tại lỵ sở.

102

Đỗ Xuân Phong

Thiệu Hoá

Đỗ Xuân Phong (1877 - 1951), quê làng Đoán Quyết, huyện Thụy Nguyên, nay thuộc xã Thiệu Phúc, huyện Thiệu Hóa. Trong kỳ thi Hương, ông đỗ Cử nhân khoa Nhâm Tý, niên hiệu Duy Tân thứ 6 (1912), tại trường thi Thanh Hóa. Ông đỗ Phó bảng khoa Quý Sửu, niên hiệu Duy Tân thứ 7 (1913), lúc 37 tuổi. Ông làm tri huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi.

103

Trần Văn Phú

Thiệu Hóa

Trần Văn Phú (1749 - 1830), quê Vãn Hà, huyện Thụy Nguyên (nay là trị trấn Thiệu Hóa, huyện Thiệu Hóa). Ông làm quan thời Lê Trung Hưng, chức Phó Thiên hộ, Trì uy Tướng quân, Thủ ngự Tổng tri Phi kỵ úy kiêm Tổng Tri, hạng Trung chế, đồng thời là cha của Vệ úy Túc Vũ vệ Trần Văn Vĩnh quan thời Nguyễn, được phong “Tín nghĩa Đô úy Phó quản cơ, tên thụy là Tráng Nghĩa”.

104

Lê Công Phụ

Hoằng Hóa

Lê Công Phụ (Linh Quang tôn Thần) (? - ?), quê thôn Phượng Mao, xã Hoằng Phượng, huyện Hoằng Hóa. Là danh tướng có công lao to lớn giúp vua Lê chống lại giặc Minh, sau đó cùng vua Lê Nhân Tông dẹp giặc Đồn Bàn, được triều đình ban thưởng và ban đất ở vùng Phượng Mao để lập đồn điền, khai hoang lập ấp. Vì vậy, sau khi mất, được dân làng thờ phụng và tôn làm Thành Hoàng làng. Trải qua thời gian và chiến tranh, nghè thờ thần bị phá hủy, người dân rước thần về thờ phụng tại đình làng. Năm 1991, đình làng Phượng Mao đã được Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin (nay là Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh tại Quyết định số 35/VHQĐ ngày 24/12/1991.

105

Nguyễn Xuân Phương

Hà Trung

Nguyễn Xuân Phương (? - ?), quê huyện Hà Trung, ông là Bí thư chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên huyện Hà Trung được thành lập ở Gác chuông chùa Trần (xã Hà Ngọc), thành lập vào ngày 10/10/1930. Ông là tri thức yêu nước tham gia vào hội Xích sinh (tức hội Học sinh đỏ), là một trong những người đầu tiên của huyện tuyên truyền đường lối cách mạng của đồng chí Nguyễn Ái Quốc.

106

Đinh Chương Phượng

Hậu Lộc

Đinh Chương Phượng (1918 - 1980), quê huyện Hậu Lộc. Ông là con thứ 2 của nhà cách mạng Đinh Chương Dương, là lão thành cách mạng thời kỳ tiền khởi nghĩa hoạt động nhiều nơi trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Bí thư chi bộ đầu tiên của huyện Hậu Lộc, Chi bộ Lộc Tiên - Y Bích (thành lập ngày 6/1/1935). Sau cách mạng, ông giữ chức Trưởng ty công an Hà Đông, chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Đông, thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao.

107

Lê Thế Quán

Thiệu Hóa

Lê Thế Quán (? - ?) quê làng Bái Giao, huyện Đông Sơn (nay là thôn Bái Giao, xã Thiệu Giao, huyện Thiệu Hóa). Trong kỳ thi Hương, ông đỗ Cử nhân khoa Canh Tý, niên hiệu Minh Mạng thứ 21 (1840), tại trường thi Nghệ An. Ông đỗ Phó bảng khoa Nhâm Dần, niên hiệu Thiệu Trị thứ 2 (1842). Ông làm quan đến chức Đồng tri phủ.

108

Lương Tuyên Quang

Hoằng Hóa

Lương Tuyên Quang (1556 - 1632), quê thôn Hội Triều, xã Hoằng Phong, huyện Hoằng Hóa. Ông về thôn Đông Lý, xã Sen Hồ, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, nay là thôn Đông Lý, xã Ngọc Lĩnh, thị xã Nghi Sơn sinh cơ lập nghiệp. Ông là một công thần thời Lê -Trịnh được tiến phong Kim tử Vinh lộc đại phu, tước là Phó Nghĩa Tử, được triều đình phong sắc làm phúc thần cho thôn Đồng Lý, xã Liên Hồ, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa phụng thờ. Di tích được xếp hạng là di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.

109

Trương Đức Quang

Hoằng Hóa

Trương Đức Quang (1478 - ?), quê Chuế Thôn, xã Ngọc Xuyết, sau là Kim Xuyết, tổng Kim Xuyết nay là thôn Hùng Tiến, xã Hoằng Yến, huyện Hoằng Hóa. Năm 25 tuổi đỗ Đệ Nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng Giáp), khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Cảnh Thống năm 1502 đời Lê Hiến Tông. Ông làm quan đến chức Đề hình giám sát ngự sử, ông là tấm gương tiêu biểu trong số những người “khổ học”, “cần học” của truyền thống hiếu học huyện Hoằng Hóa.

110

Lê Đình Quát

Thiệu Hoá

Lê Đình Quát (? - ?) quê làng Kim Hoạch, huyện Lương Giang (nay là thôn Minh Thượng, xã Thiệu Công, huyện Thiệu Hóa). Ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Tuất, niên hiệu Hồng Đức thứ 21(1490), đời vua Lê Thánh Tông. Ông làm quan đến chức Đô Ngự sử.

111

Nguyễn Đình Quế

Thiệu Hóa

Nguyễn Đình Quế (1637-?), quê làng Lam Vĩ, xã Thiệu Vũ, huyện Thiệu Hóa, ông còn có tên là Nguyễn Đình Tường, là con trai duy nhất, lại mồ côi cha mẹ từ nhỏ, song là người học hành chăm chỉ, siêng năng luyện tập võ nghệ. Ông còn là người phong tư hùng dũng, sức mạnh hơn người, lỗi lạc và có chí lớn. Ông thường nói rằng: “người con trai mà không làm được công việc oanh liệt, chỉ làm một tên phu ở hương thôn, như thế là sống thừa mà thôi” rồi ông tham gia quân đội, giúp vua Lê đánh giặc lập công và được làm đến chức Phụ Quốc Thượng tướng quân Đô đốc phủ, Tả Đô đốc đồng Tri Thái bảo, tước Tường Quận công (sau khi mất được Nhân dân bầu hậu Phúc thần, triều đình ban sắc cho Nhân dân thờ cúng và phong cho thần là Dũng lược Đại Vương).

112

Lê Đình Sằn

Thị xã Nghi Sơn

Lê Đình Sằn (? - ?), quê xã Thanh Sơn, huyện Tĩnh Gia nay là thị xã Nghi Sơn. Năm 1948 - 1954, ông được giữ chức Bí thư Huyện ủy Tĩnh Gia, rồi Thường vụ Tỉnh ủy, Bí thư Ban miền Tây trực tiếp chỉ đạo Đại hội thành lập Đảng bộ huyện Như Xuân tại doanh trại của An toàn khu Đồng Ớt, xã Yên Cát (nay là xã Hóa Quỳ) năm 1949. Từ năm 1957- 1958, ông làm Phó trưởng ban Tổ chức khu ủy IV. Từ năm 1960, ông là Thường vụ Tỉnh ủy, phụ trách Tĩnh Gia. Từ năm 1960 - 1963, ông là Tỉnh ủy viên, Trưởng ban Kiểm tra Tỉnh ủy, được truy nhận lão thành cách mạng.

113

Lê Văn Sứ

Nông Cống

Lê Văn Sứ (? - ?), quê huyện Nông Cống. Nhân dân gọi ông là Bát Thuận, người làng Tiền Hậu, xã Minh Nghĩa, huyện Nông Cống. Ông là nhân vật tham gia phong trào Cần Vương, đóng căn cứ ở núi Chay và cho nghĩa quân canh giữ đồn Mả Cật ở làng Tiền Hậu và cồn Vừng ở làng Trường Quang, xã Minh Nghĩa. Ông là người chỉ huy Nghĩa quân cả một vùng, tham gia đánh trận Đồn Mung (nay xã Trung Thành).

114

Doãn Đình Tá

Triệu Sơn

Doãn Đình Tá (1478 - ?), quê xã Cổ Định, huyện Nông Cống (nay là thị trấn Nưa, huyện Triệu Sơn). Ông đỗ Tiến sĩ khoa Kỷ Mùi (1499) đời vua Lê Hiến Tông lúc 22 tuổi, ông làm quan đến chức Công Bộ thượng thư, hàm Thiếu bảo. Là người có công, khi Trịnh Tráng lên ngôi coi ông là ân nhân ban cho ông chức Hiến sát sứ, tước nhân quận công.

115

Quản Tâm

Thạch Thành

Quản Tâm (? - ?), quê xã Thành Kim nay là thị trấn Kim Tân, huyện Thạch Thành. Trong phong trào Cần Vương, ông đã chiêu tập binh sĩ, làm lễ tế cờ, đóng quân tại đồi lau chống địch. Giặc Pháp đã đưa quân từ đồn Phong Ý (Cẩm Thủy) và đồn Bỉm Sơn lên đàn áp, Quản Tâm và nghĩa quân chống trả quyết liệt nhưng bị thất bại và đã anh dũng hy sinh.

116

Lưu Thế Tán

Yên Định

Lưu Thế Tán (? - ?), quê làng Chân Bái, huyện Yên Định. Theo gia phả họ Lưu và văn bia dựng năm Cảnh Trị thứ 4 (1666) cho biết thì Lưu Thế Tán từng đi theo Trịnh Tùng phù Lê, diệt Mạc, lập được nhiều chiến công trong việc bảo vệ vùng căn cứ Biện Thượng, nay thuộc huyện Vĩnh Lộc - quê hương nhà Trịnh. Ông được phong tới chức Phụ quốc thượng tướng quân. Khi mất, ông được triều đình truy tặng chức Thái Phó Đại Tư Mã và cho dân quê nhà lập đền để thờ tự.

117

Phạm Ngưu Tất

Cẩm Thủy

Phạm Ngưu Tất (? - ?), quê thôn Thạch Lam, xã Cẩm Thạch, huyện Cẩm Thủy. Tả dực phấn tướng quân Phạm Tương Công (tên tục Ngưu Tất), theo gia phả dòng họ Phạm ở Thạch Lẫm thì Phạm Tướng Công (tức Ngưu Tất) là người theo Trần Khát Chân đánh quân Chiêm Thành xâm lấn Đại Việt thế kỷ XIV, vì có công đã được phong tước hầu.

118

Nguyễn Hữu Thái

Hoằng Hóa

Nguyễn Hữu Thái (1792 - 1855), quê Đại Lộc, xã Hoằng Vinh, huyện Hoằng Hóa. Năm Ất Dậu Minh Mệnh thứ 6 (1825) ông thi Hương đỗ Cử nhân. Ông là vị quan tài năng, rất mực thanh liêm, từng giữ nhiều trọng trách trong triều. Lúc đương triều được triều thần ngưỡng vọng, về hưu được quê hương mến mộ. Ông làm quan đến chức: Phụng Nghị đại phu, Giám sát ngự sử đạo Nam Nghĩa Quảng Nam - Quảng Ngãi.

119

Nguyễn Phúc Thái

Hà Trung

Nguyễn Phúc Thái (1649 - 1691), quê gốc Gia Miêu, huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, trấn Thanh Hóa, nay là xã Hà Long, huyện Hà Trung. Đây là Chúa Nguyễn thứ 5 của chính quyền Đàng Trong trong lịch sử Việt Nam (ở ngôi 1687-1691), nối ngôi Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần. Trong những năm trị vì, chúa Nguyễn Phúc Thái nổi tiếng là người có tính tình rộng lượng, khoan hòa, biết chiêu hiền đãi sỹ, cho mở các khóa thi để tìm kiếm tuyển chọn nhân tài cho đất nước, đặc biệt, Chúa rất quan tâm đến đời sống Nhân dân, đưa ra những chính sách khai khẩn đất đai, khuyến khích phát triển nông nghiệp.

120

Nguyễn Đức Thân

Hậu Lộc

Nguyễn Đức Thân tức Nguyễn Văn Sen (1911 - 1984), quê huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Ông hoạt động cách mạng chủ yếu ở các tỉnh Đông Nam Bộ. Tháng 4/1948, ông làm Bí thư tỉnh ủy tỉnh Long Châu Hậu, năm 1950, Bí thư Tỉnh ủy của tỉnh Long Châu Hà. Sau đó giữ nhiều chức vụ quan trọng khác của tỉnh này. Ông mất năm 1984.

121

Hoàng Khắc Thận

Hậu Lộc

Hoàng Khắc Thận (1505 - ?), quê xã Đại Lộc, huyện Hậu Lộc, đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Sửu, niên hiệu Minh Đức thứ 3 (1529) đòi Mạc Đăng Dung, làm quan chức Lại Bộ Thượng thư, tước Hoành Trung Hầu.

122

Nguyễn Chiến Thắng

Nga Sơn

Nguyễn Chiến Thắng (1919- 2007), quê huyện Nga Sơn, là lão thành cách mạng - Bí thư Chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên của huyện Nga Sơn được thành lập tháng 10/1945. Di tích Vườn Chè - nơi thành lập Chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên của huyện Nga Sơn là khu đất của gia đình ông.

123

Lê Nguyên Thành

Thành phố Thanh Hóa

Lê Nguyên Thành (1868 - 1951), quê làng Đông Tác, thành phố Thanh Hóa. Sau khi đỗ tú tài, chính quyền Nam Triều dụ dỗ cụ ra làm quan nhưng cụ khước từ và ở nhà dạy học. Ông là chiến sĩ yêu nước, là lãnh tụ phong trào chống sưu thuế ở Trung Kỳ năm 1908.

124

Lý Công Thành

Hậu Lộc

Lý Công Thành (? - ?), quê huyện Hậu Lộc, là một trong 03 ông tướng họ Lý tham gia khởi nghĩa Bà Triệu năm 248. Hiện tại mộ của ba ông vẫn còn ở chân núi Tùng, xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc.

125

Nguyễn Trọng Thao

Thiệu Hóa

Nguyễn Trọng Thao (1801 - 1860), quê huyện Thụy Nguyên (nay là huyện Thiệu Hóa), tỉnh Thanh Hóa. Xuất thân trong gia đình dòng dõi binh nghiệp, năm Gia Long 14 (1815), ông gia nhập quân đội. Sau này được thăng lên chức Đề đốc quân vụ, ông mất tại nơi đóng quân. Bài vị của ông được thờ ở đền Hiền Lương.

126

Hoàng Đình Thể

Hậu Lộc

Hoàng Đình Thể (? - 1786), quê làng Bộ Đầu, xã Thuần Lộc, huyện Hậu Lộc. Danh tướng có đóng góp ở triều đại Lê - Trịnh. Hoàng Đình Thể đỗ Đồng Tạo sĩ ưu trúng hạng khoa (tiến sỹ võ) năm Nhâm Thân niên hiệu Cảnh Hưng 13 đời vua Lê Hiển Tông (1752). Tháng 9 năm Kỷ Sửu (1769), khi Lê Duy Mật - một tôn thất nhà Lê khởi binh chống lại triều đình Lê - Trịnh ở Trấn Ninh (Nghệ An), Hoàng Đình Thể giữ ấn Binh, đốc quân Tuyên Quang và Hưng Hóa cùng Nguyễn Phan, Bùi Thế Đạt tấn công Lê Duy Mật để bảo vệ triều đình Lê - Trịnh.

127

Nguyễn Khắc Thiệu

Hà Trung

Nguyễn Khắc Thiệu (1764 - 1816), quê Gia Miêu, Hà Trung. Ông làm quan dưới triều Nguyễn, tháng 10 năm 1795 ông được vào Viện Thị thư, lại thăng chức Nội thị thư viện. Tháng 10 năm 1807, nhà Nguyễn mở khoa thi Hương ông được cử làm Đề điều trường thi Bắc Thành, rồi làm Đề điều trường thi Hải Dương. Năm 1809, ông tham gia vào việc trông coi đê chính ở Bắc Thành.

128

Lê Khắc Thuần

Thành phố Thanh Hóa

Lê Khắc Thuần (1668 - 1730), quê làng Phù Quang, xã Hoằng Quang, thành phố Thanh Hóa. Năm 43 tuổi, ông đỗ Đệ Tam Giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Canh Dần (1710) đời Lê Hy Tông. Ông làm quan đến chức Hình khoa cấp sự trung.

129

Lê Thức

Triệu Sơn

Lê Thức (1628 - ?), quê Tam Lộng, huyện Lôi Dương (nay là xã Xuân Thọ, huyện Triệu Sơn). Ông đỗ Tiến sĩ khoa Kỷ Hợi (1659) đời Lê Thần Tông lúc 32 tuổi, làm chức Hiến sứ. Ông có một bài thơ chữ Hán chép trong Toàn Việt thi lục...

130

Lê Nhân Thực

Thị xã Nghi Sơn

Lê Nhân Thực (? - ?), quê thị xã Nghi Sơn. Ông là công thần thời Lê sơ, được phong chức Quản lĩnh hầu, kiêu kị úy trí thắng, ông là một võ quan, do lập được công trạng ông được Nhà Lê ban tước hầu. Theo sắc phong Quản lĩnh hầu là chức quan võ chỉ huy một sở, hàm ngũ phẩm sau đó được phong tước đặc tiến Kim tử Vinh Lộc.

131

Lê Quốc Thực

Yên Định

Lê Quốc Thực (? - 981), quê thôn Cẩm Trướng, xã Định Công, huyện Yên Định. Lê Quốc Thực hay còn gọi là Lê Tướng Công, là bộ tướng của Đinh Bộ Lĩnh có nhiều công lao trong việc dẹp loạn 12 sứ quân. Khi Đinh Bộ Lĩnh mất, ông lại tiếp tục ủng hộ Lê Hoàn đánh Tống, bình Chiêm. Ông từng được nhà Đinh phong 3 chữ vàng là “Đinh Can Thành” (Vị tướng giỏi can trường của nhà Đinh). Ông mất ngày mùng 5 tháng 10 năm 981 trong trận chiến với quân nhà Tống. Đền thờ ông tại thôn Cẩm Trướng, xã Định Công, huyện Yên Định được Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin (nay là Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử văn hóa cần được bảo vệ và phát huy tác dụng tại Quyết định số 230/VH-QĐ ngày 08/7/1995 và được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh cấp bằng xếp hạng di tích lịch sử văn hóa tại Quyết định số 174/QĐ-UBND ngày 17/01/2011.

132

Lê Thùy

Thành phố Thanh Hóa

Lê Thùy (? - ?), quê thành phố Thanh Hóa. Ông cùng Lê Duyên và Lê Trung là 03 người con trai của Tướng quân Lê Thành; các ông được sinh ra và lớn lên tại làng Định Hòa đã có công phò Vua, giúp nước dưới triều Lê Sơ và đều được phong Tước hiệu. Hiện đang được thờ cùng tại Đền thờ Tướng quân Lê Thành, làng Định Hòa, phường Đông Cương.

133

Mai Thị Ngọc Tiến

Nga Sơn

Mai Thị Ngọc Tiến (? - 1717), quê làng Thạch Tuyền, xã Nga Bạch, huyện Nga Sơn. Bà là người học rộng tài cao có thể giúp Vua trong việc trị nước, bà được phong là “Chiêu Dung Công Chúa”, được ở lại trong cung để dạy bảo các Hoàng Tử, Công Chúa vào đời Vua Lê Hy Tông hiệu Vĩnh Trị đệ nhất niên (năm Bính Thân 1676). Khi bà mất vào đời Vua Lê Dụ Tông đệ tam niên (năm Đinh Dậu 1717), Vua Lê Dụ Tông rất nhớ công ơn của bà đã dạy bảo chăm sóc mình từ nhỏ, Vua coi bà như mẹ mình và phong sắc cho bà là bậc Hoàng Thái Hậu, coi bà như Quốc mẫu, cho tạc tượng và lập đền thờ tại quê nhà.

134

Trương Quang Tiền

Thiệu Hóa

Trương Quang Tiền (tức Trương Luân Đạo) (1615 - 1677), quê làng Kim Hoạch, huyện Thụy Nguyên (nay là xã Thiệu Công, huyện Thiệu Hóa). Năm 26 tuổi, ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Thìn, niên hiệu Dương Hòa thứ 6 (1640), đời vua Lê Thần Tông. Ông làm quan đến chức Đông các hiệu thư, tước Mai lâm tử.

135

Phan Kiêm Toàn

Thiệu Hóa

Phan Kiêm Toàn[218] (1615 - ?), quê huyện Thụy Nguyên sau thuộc xã Thiệu Tâm (nay là thị trấn Hậu Hiền, huyện Thiệu Hóa). Ông thi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Quý Mùi (1643), làm đến chức Thượng thư Bộ hình.

136

Vũ Bá Trác

Thanh Hóa

Vũ Bá Trác (? - ?), quê Thanh Hóa, làm quan dưới Triều Lê Trung Hưng. Ông thi Hương năm Quý Mão (1783) đậu Cử nhân, giữ chức Thống đốc chi binh. Ông được thờ tại đình Xuân Lưu, thị trấn Rừng Thông, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Đình đã được xếp hạng di tích cấp tỉnh.

137

Đặng Xuân Tráng

Hà Trung

Đặng Xuân Tráng (? - ?), quê huyện Hà Trung, là một trong hai vị thủ lĩnh (Nguyễn Viết Toại, Đặng Xuân Tráng) tiêu biểu của huyện Hà Trung trong phong trào Cần Vương chống thực dân Pháp, có nhiều đóng góp quan trọng trong xây dựng và chiến đấu ở cứ điểm Ba Đình nổi tiếng.

138

Nguyễn Trật

Thành phố Thanh Hóa

Nguyễn Trật (1581 - 1661), quê làng Nguyệt Viên, xã Hoằng Quang, huyện Hoằng Hóa (nay là thành phố Thanh Hóa). Năm 20 tuổi (1600) ông thi đỗ Hương cống. Năm 51 tuổi, ông đỗ Đệ Tam Giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Quý Hợi (1623) đời Vua Lê Thần Tông. Ông làm quan đến chức Công khoa đô cấp sự trung.

139

Vũ Trật

Thiệu Hóa

Vũ Trật (1463 - ?), quê làng Lỗ Hiền, huyện Lôi Dương, sau thuộc xã Thiệu Tâm (nay là thị trấn Hậu Hiền, huyện Thiệu Hóa). Năm 25 tuổi, ông đỗ Hoàng giáp khoa Đinh Mùi, niên hiệu Hồng Đức thứ 18 (1487), đời vua Lê Thánh Tông. Ông làm quan đến chức Giám sát ngự sử.

140

Bà Triều

Thành phố Sầm Sơn

Bà Triều (? - ?), quê thành phố Sầm Sơn, tương truyền Bà là tổ sư nghề dệt săm xúc và tơ lụa, có sắc phong từ đời Vua Lê Thánh Tông (giai đoạn 1460 - 1497) với Thánh vị “Hùng Triều thánh tổ, Ưng đồ đại vương, Thượng đẳng tối linh thần”. Bà được Nhân dân thành kính, tôn thờ vì đã có công truyền dạy cho Nhân dân Sầm Sơn cách dệt xăm xúc đánh moi và lưới rùng để đánh bắt cá đem lại cuộc sống ấm no cho dân làng. Để tưởng nhớ công ơn của bà, Nhân dân Sầm Sơn đã lập đền thờ Bà Triều tại khu phố Công Vinh, phường Quảng Cư và khu phố Vĩnh Thành, phường Trung Sơn. Đền thờ Bà Triều, phường Trung Sơn và phường Quảng Cư thành phố Sầm Sơn được Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin (nay là Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử văn hóa cần được bảo vệ và phát huy tác dụng tại Quyết định số 316/VHQĐ ngày 04/9/1995.

141

Mai Thị Triều

Thị xã Nghi Sơn

Bà Mai Thị Triều (? - ?), quê thôn Thượng Thọ, Giáp Mai (làng Mai) xã Hào Môn, huyện Ngọc Sơn nay là tổ dân phố Thống Nhất, phường Ninh Hải, thị xã Nghi Sơn. Bà Mai Thị Triều thụy là Mẫu Khanh phu nhân hay còn gọi là Quý Thanh Tuyên từ ngọc nữ. Bà là con người nhân hậu, tài đức hơn người, có công hộ quân đánh giặc, hộ lương nuôi quân, phát chẩn cứu bần, được phong Hậu Thần. Đền thờ Mai Thị Triều được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.

142

Lê Công Trinh

Hoằng Hóa

Lê Công Trinh (? - ?) (Linh Thông Tôn Thần), quê thôn Phượng Mao, xã Hoằng Phượng, huyện Hoằng Hóa. Là vị tướng nhà Lê, có nhiều công lao trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh, sau phò vua Lê Nhân Tông, có công lớn trong dẹp giặc Đồn Bàn, được triều đình ban thưởng và cho phép lập đồn điền, khai khẩn đất hoang, chiêu dân lập ấp. Theo truyền thuyết, sau khi Ngài qua đời thường hiện thánh giúp đỡ Nhân dân địa phương, hiển linh âm phù vua Lê đánh Nhà Mạc. Những công lao to lớn của Ngài đối với quê hương, đất nước đều vang danh qua các triều đại.

143

Nguyễn Nhân Trứ

Thành phố Thanh Hóa

Nguyễn Nhân Trứ (1612 - ?), quê làng Nguyệt Viên, xã Hoằng Quang, thành phố Thanh Hóa. Ông đỗ Đệ Tam Giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa Giáp Tuất (1634), đời Lê Thần Tông, giữ chức công bộ Tả Thị Lang, tước Hoằng Phái hầu khi mất được tăng chức Thượng Thư.

144

Lưu Trung

Thọ Xuân

Lưu Trung (? - ?), quê xã Đàm Thi, huyện Lương Giang, nay là làng Quảng Thi, xã Xuân Thiên, huyện Thọ Xuân. Lưu Trung đến Lam Sơn tụ nghĩa tháng 3 năm Đinh Dậu (1417), ông cùng 13 người khác đội cỏ khô bơi theo dòng nước lấy được Linh Xa của bố vua (Lê Lợi) về tang ở Động Chiêu Nghi như cũ. Lưu Trung tham gia nhiều trận đánh góp phần cùng nghĩa quân Lam Sơn giải phóng đất nước. Năm Thuận Thiên Thứ nhất Mậu Thân (1428) Lưu Trung được giữ chức Đồng Tổng quản vệ Quy hóa. Năm thuận thiên thứ 5 (1432) ông được thăng bảo chính công thần nhập nội, hạ quốc oai vệ chủ quân sự. Sau được phong chức Tư Mã.

145

Lê Trung

Thành phố Thanh Hóa

Lê Trung (? - ?), quê thành phố Thanh Hóa. Ông cùng Lê Thùy và Lê Duyên là 03 người con trai của Tướng quân Lê Thành; các ông được sinh ra và lớn lên tại làng Định Hòa đã có công phò Vua, giúp nước dưới triều Lê Sơ và đều được phong Tước hiệu. Hiện đang được thờ cùng tại Đền thờ Tướng quân Lê Thành, Làng Định Hòa, phường Đông Cương.

146

Nguyễn Trừng

Đông Sơn

Nguyễn Trừng (? - ?), quê xã Đông Thanh, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông làm quan dưới triều Lê Thần Tông được phong Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu, nhập thị kinh diên bộ tòng, hình bộ Tả thị lang, tức Lộc Diên Hầu, tên thụy là Thuần Trung tướng công ... Đền thờ Nguyễn Trừng được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh năm 2011.

147

La Tu

Hậu Lộc

La Tu (? - ?), quê xã Xuân Lộc, huyện Hậu Lộc, đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ (Hoàng Giáp), khoa Giáp Dần (1374) đời Trần Duệ Tông (cùng khoa với Nguyễn Ứng Long - cha đẻ Nguyễn Trãi), từng làm tri phủ Thanh Hóa. Ông là hậu duệ của Áp lãng chân nhân La Viện.

148

Nguyễn Thị Ngọc Tú

Thị xã Bỉm Sơn

Nguyễn Thị Ngọc Tú (? - ?), là con gái của Đoan Quận công Nguyễn Hoàng và là Chính phi Thanh Đô vương Trịnh Tráng. Sau khi làm nội cung của Trịnh Tráng (1623), bà về thăm quê hương ở huyện Tống Sơn, nhân đó bỏ tiền công đức dựng chùa Khánh Quang (Trạch Lâm). Trong chùa có tượng Vương phi tức là bà.

149

Trịnh Văn Tuấn

Thiệu Hóa

Trịnh Văn Tuấn (1585 - ?), quê làng Tuấn Kiệt, huyện Thụy Nguyên (nay là thôn Tuấn Kiệt, xã Thiệu Phú, huyện Thiệu Hóa). Năm 56 tuổi, ông đỗ Tiến sĩ khoa Canh Thìn, niên hiệu Dương Hòa thứ 6 (1640), đời vua Lê Thần Tông. Ông làm quan đến chức Hàn lâm Hiệu thảo ( Bài ký bia Tiến sĩ khoa Canh Thìn, niên hiệu Dương Hòa thứ 6 (1640), được khắc và dựng bia tại Văn miếu, vào ngày 16 tháng 11, niên hiệu Thịnh Đức thứ 1 (1653), đời vua Lê Thần Tông).

150

Lê Bá Tùng

Đông Sơn

Lê Bá Tùng (1892 - 1948), quê làng Hàm Hạ, nay thuộc thị trấn Rừng Thông, huyện Đông Sơn, là một trong ba Đảng viên đầu tiên của Chi bộ Hàm Hạ (Chi bộ Đảng đầu tiên ở tỉnh Thanh Hóa).

151

Đỗ Tương

Thị xã Nghi Sơn

Đỗ Tương (? - ?) (Đậu Đình Tương), quê làng Giản Tín, xã Trúc Lâm, thị xã Nghi Sơn. Ông đỗ Tiến sỹ khoa Ất Mùi năm 1475.

152

Chàng Út

Nông Cống

Chàng Út (? - ?), quê huyện Nông Cống. Họ Lê tên húy là Hữu, hiệu Chàng Út, tôn phong Tham Xung Tá Quốc, là con trai của Thái Thú Cửu Chân Lê Ngọc. Thời Tùy Đại Nghiệp (603-617), khi nhà Đường tiêu diệt nhà Tùy, ngài cùng cha và ba anh em đứng lên chọn vùng Đông Sơn - Nông Cống làm chiến khu riêng chống lại nhà Đường. Trong ba anh em, ngài là con út xuất chúng hơn cả. Về sau, thất trận ngài hóa ở đền Mưng, xã Trung Thành bên bờ sông Lãng Giang (nay là sông Cầu Quan thuộc Nông Cống), Nhân dân tôn là Thánh Lưỡng (đọc chệch âm là Lãng thành Lưỡng). Ngày nay, dân hai bên tả hữu sông Cầu Quan có rất nhiều làng thờ ông, toàn tỉnh có 57 nơi thờ riêng (Nông Cống 43 nơi).

153

Hoàng Duy Văn

Hoằng Hóa

Hoàng Duy Văn (? - ?), quê Phú Vinh, Hoằng Vinh, huyện Hoằng Hóa. Ông làm quan cuối thời Lê - Trịnh, năm niên hiệu Cảnh Hưng thứ 44 (1783), vì lập được nhiều công tích được triều đình nghị bàn thăng cho hai cấp Bá hộ Phó Thiên hộ. Về sau thăng chức Phó Vệ úy.

154

Lê Đình Vệ

Nông Cống

Lê Đình Vệ (1448 - ?), quê làng Thổ Giá, huyện Nông Cống, nay là Thổ Vị, xã Tế Thắng, huyện Nông Cống. Ông là em Hoàng giáp Lê Khắc Nhượng, thi đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa thi Mậu Thìn niên hiệu Đoan Khánh thứ 4 (1508) đời Lê Uy Mục (hai anh em thi đỗ đồng khoa). Khi làm quan văn ông giữ chức Đông các Đại học sĩ. Còn quan võ là Phụ quốc Thượng tướng quân, hàm chánh tam phẩm.

155

Nguyễn Vi

Hoằng Hóa

Nguyễn Vi (1608 - ?), quê làng Nguyệt Viên, xã Hoằng Quang, huyện Hoằng Hóa (nay là thành phố Thanh Hóa). Ông đỗ tiến sĩ khoa Đinh Sửu 1637 đời Lê Thần Tông, ông được ban chức lại khoa đô đốc sư trung thành Lại khoa Đô cấp sự trung.

156

Lê Viêm

Thành phố Sầm Sơn

Lê Viêm (1849 - 1889), quê thành phố Sầm Sơn, tự Lê Văn Hân, hiệu Quả Nghị. Ông sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống yêu nước. Theo các tài liệu, trong phong trào văn thân giữa thế kỷ XIX, làng Hòa Chúng có ông Lê Viêm, thường gọi là Hương Thộ và Vũ Kim Huy, thường gọi là Đường Hiêng liên kết với lãnh tụ Lãnh Phiên (Vũ Đình Phiên, người làng Xuân Phương, xã Quảng Châu) chiêu tập nghĩa quân đánh Pháp. Riêng làng Hòa Chúng, Lê Viêm đã tập hợp được trên 80 dân binh địa phương đứng lên chống Pháp trong phong trào Cần Vương cuối thế kỷ XIX và hợp sức với đội quân của Lãnh Phiên. Lê Viêm được giao phụ trách quân lương. Ông tham gia nhiều trận đánh, trong đó lớn nhất là trận đánh tại chợ Cầu Trỏi thuộc làng Hòa Chúng ngày 8/3/1886 khiến cho quân địch hoang mang dao động. Sau đó, Lê Viêm tham gia nghĩa quân Ba Đình được giữ chức "Đốc vận quân lượng" lo vận chuyển lương thực, vũ khí. Khi căn cứ Ba Đình bị vỡ, Lê Viêm cùng một số nghĩa quân khác rút lên vùng trung du tiếp tục đánh Pháp. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, tên Lê Viêm còn được đặt cho tên một xã trước khi có tên xã Quảng Thọ.

157

Nguyễn Vĩnh

Hoằng Hóa

Nguyễn Vĩnh (? - ?), quê xã Lam Cầu, tổng Bái Cầu, huyện Hoằng Hóa, nay là thôn Lam Hà, xã Hoằng Đại, huyện Hoằng Hóa. Ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Bính Tuất (1646), niên hiệu Phúc Thái 4, đời Lê Chân Tông, ông làm quan chức Tham chính, tước Nam.

158

Nguyễn Trọng Vĩnh

Vĩnh Lộc

Nguyễn Trọng Vĩnh (1916-2019), quê xã Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc. Ông tham gia cách mạng từ sớm, tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội, được công nhận là lão thành cách mạng. Là Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa đầu những năm 1970, là Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam và là Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc từ năm 1974 đến 1987. Ông được trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh.

159

Trần Văn Vĩnh

Thiệu Hóa

Trần Văn Vĩnh (1783 - 1876), quê xã Vãn Hà, huyện Thụy Nguyên (nay thuộc huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa). Ông có chí tang bồng, có tài thao lược cung kiếm, tung hoành vó ngựa xa trường, võ nghệ tinh tường theo hầu phủ soái, trù liệu luyện binh góp công lao cho quân đội dưới thời vua Minh Mệnh được quân hùng tướng mạnh, đánh đâu thắng đó. Cụ Vĩnh cũng được vua khen tặng về lòng trung nghĩa, hết lòng trung quân ái quốc và đặc biệt thăng cho chức Phấn Dũng tướng quân thần sách quân Hậu doanh, tuyển Phong hậu vệ phó vệ úy, trật tòng tam phẩm. Cụ được vua Minh Mệnh ban cho cáo mệnh, tôn sùng nhất tâm nhất đức, hết lòng vì binh nhung, chẳng quản gian khó, công lao càng thêm rạng rỡ, lan tỏa muôn phương. Báo đáp công lao, để lại tiếng thơm muôn thuở.

160

Hoàng Doãn Vũ

Thiệu Hóa

Hoàng Doãn Vũ (1475 - ?), quê làng Đại Bối, huyện Đông Sơn (nay là thôn Đại Bái, xã Thiệu Giao, huyện Thiệu Hóa). Ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Thìn, năm 34 tuổi niên hiệu Đoan Khánh 4 (1508), đời vua Lê Uy Mục. Ông làm quan đến chức Hữu thị lang.

161

Nguyễn Thời Vụ

Thị xã Nghi Sơn

Nguyễn Thời Vụ (? - ?), quê làng Kim Cốc, xã Mai Lâm, thị xã Nghi Sơn. Vào những năm đầu thế kỷ XVIII, ông cùng Trần Công Sủng và Lê Nhân Quý (người cùng làng Kim Cốc) có công trong việc đắp đê ngăn mặn, đắp đường, khai phá rừng rậm thành cánh đồng, xây dựng đình làng, chiêu dân lập ấp. Ông được tặng sắc phong là “Yên Trung Tôn Thần” thời Long Đức Lê Thần Tông. Hiện nay nhà thờ ông và dòng họ Nguyễn Tông đã tồn tại hơn 400 năm tại làng Kim Cốc (nay là tổ dân phố Kim Phú, phường Mai Lâm).

162

Phong Xà

Thọ Xuân

Phong Xà (? - ?), quê làng Ngọc Trung, xã Xuân Minh, huyện Thọ Xuân, tương truyền ông là ông tổ nghề ca công của nước ta. Tại đây từng có đến thờ ông. Hàng năm, các phường ca khắp mọi miền đất nước đều về dự ngày giỗ để tỏ lòng biết ơn.

163

Hoàng Đăng Xuân

Hậu Lộc

Hoàng Đăng Xuân (1678 - ?), quê xã Đại Lộc, huyện Hậu Lộc. Ông đỗ Tiến sĩ năm Ất Mùi (1715), làm đến chức Thừa chính sứ. Khi mất tặng chức Tả Thị Lang.

2.3. Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân: 31 anh hùng

STT

Tên dùng

Quê quán

Tóm tắt lý lịch

1

Lương Văn Biêng

Quan Hóa

Lương Văn Biêng (1949 - 1993), quê Bản Ken, xã Nam Động (nay là Bản Ken 1, xã Nam Tiến, huyện Quan Hóa). Ông nhập ngũ tháng 7/1967 khi ông 18 tuổi, trong thời gian tham gia kháng chiến do có nhiều thành tích trong chiến đấu ông được phong Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ kháng chiến chống Mỹ vào ngày 15/01/1976 khi ông 27 tuổi. Sau đó, ông cùng gia đình chuyển vào Nam sinh sống. Do vết thương cũ tái phát và mắc bệnh hiểm nghèo, ông đã mất năm 1993 tại Đăk Lăk khi ông mới 44 tuổi.

2

Lê Xuân Bồng

Hoằng Hóa

Lê Xuân Bồng (1947 - 1995), quê xã Hoằng Thịnh, huyện Hoằng Hóa. Nhập ngũ tháng 2/1965, có nhiều thành tích trong chỉ huy và chiến đấu, ngày 15/1/1976, ông được phong Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ chống đế quốc Mỹ. Ông mất năm 1995.

3

Lò Văn Bường

Thường Xuân

Lò Văn Bường (1924 - 2019), quê thôn Cộc Chẻ, Xã Xuân Lẹ, huyện Thường Xuân, ông là người dân tộc Thái.

Năm 1948, ông tham gia kháng chiến chống Pháp, là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, ông từng giữ chức Trung đội Phó bộ binh thuộc đoàn 335, bộ đội tình nguyện, hoạt động tại miền Tây giúp bạn. Năm 1956, ông được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Ông là cựu chiến binh lao động sản xuất giỏi. Ông mất năm 2019.

4

Lê Đình Chinh

Thành phố Thanh Hóa

Lê Đình Chinh (1960 - 1978), quê xã Hoằng Quang (nay là thành phố Thanh Hóa). Lê Đình Chinh sớm tham gia lực lượng công an vũ trang, ông hy sinh trong trận gây rối ở biên giới phía Bắc, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở khu vực biên phòng Ải Bắc. Ngày 31/12/1978, được truy tặng danh hiệu là Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

5

Lê Văn Đa

Thạch Thành

Lê Văn Đa (1948 - 1969), quê huyện Thạch Thành. Ông nhập ngũ tháng 4 năm 1967, hy sinh ngày 22 tháng 02 năm 1969. Cấp bậc, chức vụ khi hy sinh: Thượng sĩ - Trung đội trưởng đội đặc công nước Thị đội Hội An (Quảng Nam), hy sinh trong trận đánh vào trung tâm nội ô tiêu diệt cơ quan đầu não của Mỹ ngụy tại Hội An, Quảng Nam. Ông được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân năm 2018.

6

Trần Quang Đắp

Thiệu Hóa

Trần Quang Đắp (1946 - 1967), quê xã Thiệu Quang, huyện Thiệu Hóa. Nhập ngũ tháng 4/1965; Đơn vị đại đội 21 trinh sát, Trung đoàn 165, sư đoàn 7, Quân đoàn 4. Hy sinh ngày 21/11/1967. Ông được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân theo Quyết định số 803/QĐ ngày 25/4/2013 của Chủ tịch nước.

7

Mai Văn Dậu

Nga Sơn

Mai Văn Dậu (1923 - 2018), quê thôn Hợp Long 1, xã Nga Trường, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, được phong tặng Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Ông mất năm 2018.

8

Bùi Ngọc Đủ

Quảng Xương

Bùi Ngọc Đủ (1942 - 2017), quê xã Quảng Lộc, huyện Quảng Xương. Năm 1961, ông nhập ngũ đi B và được biên chế vào Tiểu đoàn 10, Trung đoàn 821, Sư đoàn 324. Suốt từ đó đến năm 1969, ông cùng đồng đội tham gia gần 100 trận đánh trên các chiến trường, lập nhiều chiến công, được tặng nhiều huân - huy chương các loại. Năm 1970, ông vào chiến trường Tây Nguyên. Ngày 24/2/1972, ông chỉ huy tiểu đoàn pháo binh 2 đánh vào Đăk Tô - Tân Cảnh. Ngày 20/4/1975, ông cùng sư đoàn tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đánh vào Bình Phước, Củ Chi và giải phóng Sài Gòn ngày 30/4/1975. Sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng, là Thiếu tá làm Phó ban Tổ chức huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai. Sau đó, ông giữ nhiều chức vụ khác nhau và chỉ huy 17 trận đánh với Fulrô. Năm 1995, ông nghỉ hưu, làm Chủ tịch Hội Cựu chiến binh, Chủ tịch Hội khuyến học huyện Mang Yang. Ông Bùi Ngọc Đủ đón nhận danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân năm 2000. Ông mất năm 2017.

9

Nguyễn Minh Đức

Hoằng Hóa

Nguyễn Minh Đức (1918 - 1967), quê xã Hoằng Thắng, huyện Hoằng Hóa. Ông là Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân thời kỳ chống đế quốc Mỹ.

10

Phạm Viết Đức

Hoằng Hóa

Phạm Viết Đức (1936 - 2022), quê xã Hoằng Kim, huyện Hoằng Hóa. Nhập ngũ năm 1956, công tác trong Nhà máy Q159 chuyên sản xuất phụ tùng sửa chữa xe máy. Với tinh thần lao động hăng say, đồng chí đã có nhiều sáng kiến tăng năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, tiết kiệm vật liệu và bảo vệ trang thiết bị nhà máy. Ngày 1/10/1971, đồng chí được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân.

11

Lưu Thế Hà

Yên Định

Lưu Thế Hà (1961 - 1981), quê xã Yên Bái, nay là Yên Trường, huyện Yên Định, ông sinh ra trong gia đình cán bộ (Bố là phó hiệu trưởng trường cấp 3, các anh chị là cán bộ ở nhiều ngành). Học xong cấp 3, ông tham gia lực lượng an ninh vũ trang và công tác tại tỉnh Lâm Đồng. Qua quá trình công tác, ông được bầu là chiến sỹ thi đua của đơn vị. Năm 1981, ông được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân.

12

Lê Hữu Hãnh

Vĩnh Lộc

Lê Hữu Hãnh (1948 - 2018), quê huyện Vĩnh Lộc. Ông nguyên là phó tham mưu trưởng lữ đoàn 229 - Bộ tư lệnh công binh. Ông được tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, huân chương chiến công hạng Nhất, huân chương chiến công hạng Nhì, huân chương chiến công hạng Ba, huy chương quân kỳ chiến thắng, huân chương chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba.

13

Lê Trọng Huyên

Thiệu Hóa

Lê Trọng Huyên (1934 - 1972), quê huyện Thiệu Hóa, là thiếu tá phi công hy sinh trong khi đang thực hiện nhiệm vụ chiến đấu trên bầu trời miền Bắc với máy bay Mỹ. Ông đã được truy tặng danh hiệu cao quý Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân tại Quyết định số 161/KT-CTN ngày 28/4/2020, ông là 1 trong khoảng 20 người là anh hùng liệt sĩ trong số hơn 80 Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân là người Thanh Hóa.

14

Lê Hỷ

Thạch Thành

Lê Hỷ (1935 - 2022), quê khu phố 1 Liên Sơn, thị trấn Kim Tân (trước đây là Thôn 1 Liên Sơn, xã Thành Kim), huyện Thạch Thành. Nguyên quán: xã Hoằng Đại, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

Tháng 01 năm 1954, ông nhập ngũ. Năm 1966, ông cùng đơn vị được điều vào chiến trường Quảng Trị (Vĩnh Linh) để nghiên cứu đánh B52. Ngày 17/9/1967, ông cùng đồng đội thuộc Trung đoàn 238 đã bắn rơi được chiếc B52 đầu tiên, trong đó ông là người trực tiếp đã phóng 02 quả tên lửa vào mục tiêu. Ngày 22/12/1967, đơn vị ông bắn rơi thêm 01 chiếc B52, tổng cộng đã bắn rơi 6 máy bay ở Vĩnh Linh, trong đó ông tham gia bắn rơi được 04 máy bay B52. Ông đã được tặng thưởng nhiều huân, huy chương cao quý, Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng. Ông được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân năm 2015.

15

Hà Văn Kẹp

Bá Thước

Hà Văn Kẹp (1942 - 2021), quê xã Kỳ Tân, huyện Bá Thước; ông là người dân tộc Thái, nhập ngũ tháng 02/1961. Khi được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang ông là Chuẩn úy, Trung đội phó trinh sát thuộc Tiểu đoàn 923, Đoàn 959 (Bộ đội tình nguyện giúp Lào), Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước ngày 01/01/1967.

16

Cao Văn Khang

Hoằng Hóa

Cao Văn Khang (1944 - 1987), quê xã Hoằng Khánh (nay là Hoằng Xuân), huyện Hoằng Hóa. Nhập ngũ tháng 4/1963, trong công tác, đồng chí đã không sợ hy sinh, nguy hiểm, cùng tổ công binh 3 người do ông phụ trách tháo gỡ được 715 quả bom và bom nổ chậm, trong đó có 50 quả bom tạ trong vòng 16 tháng, đã thu hàng tấn thuốc nổ cho đơn vị. Đặc biệt là người tìm tòi nghiên cứu, tháo gỡ được loại bom bi, rồi phổ biến kinh nghiệm đi các nơi, trong khi chỉ mới biết trên lý thuyết một số loại bom cũ. Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng Ba và được bầu là chiến sỹ thi đua của đơn vị. Ngày 1 tháng 1 năm 1967, đồng chí Cao Văn Khang được Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

17

Nguyễn Đình Khơi

Yên Định

Nguyễn Đình Khơi (1951 - 1978), quê huyện Yên Định, nay là thị trấn Quán Lào, huyện Yên Định, ông là liệt sỹ, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, có hai Huân chương chiến công hạng Ba, một Huân chương chiến sĩ giải phóng hạng Ba, truy tặng Huân chương chiến công hạng Nhì, đã hy sinh ngày 17 tháng 11 năm 1978 tại mặt trận Tây Nam Tổ quốc.

18

Nguyễn Ngọc Khuyến

Hậu Lộc

Nguyễn Ngọc Khuyến (1949 - 2007), quê xã Đa Lộc, huyện Hậu Lộc. Ông là người lính cao xạ, có mặt trên nhiều chiến trường trong kháng chiến chống Mỹ, ở những trận địa ác liệt nhất như Cầu Ghép, Hoàng Mai, Bến Thủy, Ngã Ba Đồng Lộc, đường 9 Nam Lào, Huế, Quảng Trị, chiến dịch Hồ Chí Minh 1975, biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, ông cùng đồng đội bắn rơi 12 máy bay Mỹ, bắt sống 2 phi công, được tặng thưởng Huân chương chiến công hạng Ba, Huy hiệu Bác Hồ, ba lần là Chiến sỹ quyết thắng. Ngày 01/11/1971, ông được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Ông mất năm 2007.

19

Lê Hữu Kiển

Quảng Xương

Lê Hữu Kiển tức Lê Quốc Bảo (1925 - 2006), quê xã Quảng Ngọc, huyện Quảng Xương. Ông nhập ngũ tháng 10/1954 liên tục chiến đấu ở chiến trường khu V đến tháng 5/1959 trở lại chiến trường Tây Nguyên. Từ năm 1959 - 1965 phụ trách đội vũ trang tuyên truyền, với cương vị chỉ huy trưởng đã chỉ đạo lực lượng vũ trang địa phương nhanh chóng phát triển lực lượng, tích cực đánh địch, loại khỏi vòng chiến đấu hàng nghìn tên, hỗ trợ đắc lực cho phong trào quần chúng nổi dậy diệt ác ôn. Lê Hữu Kiển được tặng 02 Huân chương chiến công giải phóng hạng Nhất, 1 Huân chương chiến công giải phóng hạng Ba, 2 lần là Chiến sĩ thi đua. Lê Hữu Kiển được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu cao quý Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Ông mất tại Đắk Lắk.

20

Hoàng Văn Kỹ

Hoằng Hóa

Hoàng Văn Kỹ (1939 - 1967), quê quán xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa. Ông bắn rơi 4 máy bay Mỹ, hy sinh trong trận đánh không cân sức ngày 5/6/1967 với máy bay Mỹ trên vùng trời Vĩnh Phúc, là Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ chống đế quốc Mỹ.

21

Đặng Đình Lống

Thị xã Nghi Sơn

Đặng Đình Lống (1942 - 1964), quê phường Hải Châu, nay là thị xã Nghi Sơn. Ông là liệt sỹ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, được phong tặng Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân năm 2005.

22

Phan Bá Mạnh

Nông Cống

Phan Bá Mạnh (1952 - 1979), quê huyện Nông Cống. Liệt sĩ Phan Bá Mạnh, trung úy, đại đội trưởng Đại đội 10 bộ binh Lạng Sơn, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông lập được nhiều thành tích trong công cuộc chiến đấu và phục vụ chiến đấu chống bọn xâm lược mới ở biên giới phía Tây Nam và biên giới phía Bắc. Ông được tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân năm 1979.

23

Tống Xuân Nhuận

Nông Cống

Tống Xuân Nhuận (1922 - 1996), quê xã Trường Trung, huyện Nông Cống, được truy tặng Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ông từng giữ Phó Ty Công an Thanh Hoá (1959 - 1967), Trưởng Ty Công an Thanh Hóa (4/1979 - 1981), Giám đốc Công an tỉnh Thanh Hoá (1981 - 6/1988).

24

Ngô Khắc Quyền

Thường Xuân

Ngô Khắc Quyền (1956 - 1978), quê quán xã Thọ Thanh, huyện Thường Xuân. Ông là trung sĩ, trung đội trưởng bộ binh, đại đội 2, tiểu đoàn 1, trung đoàn 273, sư đoàn 341, quân đoàn 4. Từ tháng 9/1977 đến ngày 18/7/1978, ông chiến đấu ở biên giới Tây Nam, tham gia chiến đấu trên 80 trận, diệt 35 tên địch, thu 40 khẩu súng các loại. Ngày 18/7/1978, tại trận đánh ở Búa Lớn (Tây Ninh) ông bị thương nặng hy sinh tại tỉnh Tây Ninh. Năm 1981 ông được Đảng, Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Ông hy sinh ngày 18/7/1978 tại mặt trận biên giới Tây Nam.

25

Ngô Văn Tác

Yên Định

Ngô Văn Tác (1939 - 2014), quê xã Định Hòa, huyện Yên Định. Năm 1959 nhập ngũ vào bộ đội, là Trung úy, trưởng xe kiêm sỹ quan điều khiển thuộc tiểu đoàn 71 tên lửa, trung đoàn 285, sư đoàn 369, quân chủng phòng không, không quân. Ông tham gia chiến đấu 44 trận ở nhiều tỉnh miền Bắc góp phần bắn rơi 22 máy bay Mỹ, chống lại tên lửa Sơ - rai của địch dùng để phá tên lửa của ta, ba lần đạt Chiến sỹ thi đua, hai lần Chiến sỹ quyết thắng.

Năm 1969, ông được tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Ông mất năm 2014.

26

Hà Văn Thanh

Thường Xuân

Hà Văn Thanh (1948 - 2002), quê xã Lương Sơn, huyện Thường Xuân; là người dân tộc Thái, ông tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ông là Đảng viên, thượng sĩ, Trung đội phó Đại đội 11 ô tô vận tải, Tiểu đoàn 51, binh trạm 34, đoàn 559. Từ năm 1969 đến năm 1972, ông lái xe vận chuyển đến tuyến đường 559. Trong suốt những năm tháng trên chiến trường, ông đã lái 38.221 km an toàn, ông được tặng thưởng 3 huân chương chiến công hạng 3, 2 lần là Chiến sĩ quyết thắng, 5 lần là Chiến sĩ thi đua, 42 bằng khen.

Với nhiều chiến công xuất sắc, ngày 3 tháng 9 năm 1973, ông được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân trong chống Mỹ cứu nước tại Quyết định số 324/SV ngày 03/9/1973 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ông mất năm 2002.

27

Nguyễn Văn Thất

Quảng Xương

Nguyễn Văn Thất (1955 - 1975), quê xã Quảng Yên, huyện Quảng Xương. Ông là Chiến sỹ Đại đội 1, Z23, Lữ đoàn 136, Đặc công biệt động, Bộ Tham mưu Miền Quân khu 7, hy sinh năm 1975.

Do lập được nhiều chiến công, nhất là trong chiến dịch Hồ Chí Minh. Ngày 09/10/2014 Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho Liệt sỹ Nguyễn Văn Thất tại Quyết định số: 2557/QĐ-CTN ngày 09/10/2014.

28

Lê Thụy

(tức Lê Hữu Thúy)

Hoằng Hóa

Lê Thụy (1926 - 2000) (tức Lê Hữu Thúy), quê xã Hoằng Quang, Hoằng Hóa (nay là thành phố Thanh Hóa), là một tình báo viên chiến lược trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Ông đã được nhà nước Việt Nam trao tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân năm 1996.

29

Phạm Văn Tiềm

Thị xã Nghi Sơn

Phạm Văn Tiềm (1952 - 1973), quê phường Bình Minh, thị xã Nghi Sơn ngày nay, ông là liệt sỹ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, được truy tặng Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân năm 2013.

30

Lê Văn Trung

Thiệu Hóa

Lê Văn Trung (1928 - 2022), quê xã Thiệu Ngọc, huyện Thiệu Hóa, nhập ngũ tháng 11/1966. Ông đã từng đảm nhận cấp bậc chuẩn úy, trạm trưởng sửa chữa xe máy thuộc Trung đoàn 216, Bộ tư lệnh công binh. Từ năm 1966 đến 1978, làm nhiệm vụ sửa chữa ô tô, xe máy phục vụ đơn vị chiến đấu và công tác ở nước bạn Lào. Ông được tặng thưởng 1 Huân chương chiến công giải phóng hạng Nhất, 2 Huân chương chiến công giải phóng hạng Ba, 5 lần được bầu là Chiến sĩ quyết thắng, 10 lần được bầu là Chiến sĩ thi đua, được tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân ngày 6/11/1978.

31

Lê Văn Ức

Hoằng Hóa

Lê Văn Ức (1950 - 2021), quê xã Hoằng Quỳ, huyện Hoằng Hóa. Nhập ngũ năm 1968, có nhiều công lao trong chỉ huy, chiến đấu và bảo vệ lực lượng đảm bảo an toàn khi địch bắn phá ác liệt. Ngày 20/9/1971, đồng chí được tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

2.5. Anh hùng lao động: 01 anh hùng

STT

Tên dùng

Quê quán

Tóm tắt lý lịch

1

Nguyễn Văn Huê

Nông Cống

Nguyễn Văn Huê (1926 - 2018), quê Trường Trung, huyện Nông Cống. Ông là Nhà giáo tiêu biểu của tỉnh Thanh Hóa nói riêng và cả nước nói chung, Trong những năm chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, mặc dù có nhiều khó khăn nhưng ông đã xây dựng Trường cấp 1 Hải Nhân (Tĩnh Gia) trở thành lá cờ đầu phong trào thi đua yêu nước trong hệ thống trường phổ thông toàn miền Bắc, năm 1967, ông vinh dự được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động. Ông là Đại biểu Quốc hội Khóa III, IV, V.

 

PHỤ LỤC II

SỬA ĐỔI PHỤ LỤC NGÂN HÀNG TÊN ĐƯỜNG, PHỐ VÀ CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THANH HÓA BAN HÀNH KÈM THEO NGHỊ QUYẾT SỐ 90/2017/NQ-HĐND NGÀY 07 THÁNG 12 NĂM 2017 CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH
(Kèm theo Nghị quyết số 33/2024/NQ-HĐND ngày 10 tháng 7 năm 2024 của Hội đồng nhân dân tỉnh Thanh Hóa)

(Tổng số: 22 tên)

STT

Tên đơn vị

Tên[219]

Trích yếu phần sửa đổi

(Dẫn nguồn tài liệu có liên quan)

Số trang trong Phụ lục

Ghi chú

1

Thành phố Sầm Sơn

(03 tên)

Độc Cước

Đền Độc Cước là đền thờ vị thần mang cùng tên, một vị thần trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Đền Độc Cước nằm trên đỉnh núi mang tên hòn Cổ Giải thuộc dãy núi Trường Lệ ở thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa, ngay cạnh bãi biển Sầm Sơn. Đền mang tên Độc Cước (nghĩa là một chân), gắn liền với sự tích chàng trai khổng lồ đã tự xé đôi thân mình để vừa đánh giặc quỷ biển ngoài khơi và đánh giặc trong đất liền cứu dân làng. Đền Độc Cước được xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt. (Quyết định số 1954/QĐ-TTg ngày 31/12/2019 của Thủ tướng Chính phủ về việc xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt).

20

Bổ sung di tích quốc gia đặc biệt. Bổ sung lý lịch.

Trường Lệ

Núi Trường Lệ thuộc địa phận phường Trường Sơn, thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách thành phố Thanh Hóa 17 km về phía Đông Nam.

Núi Trường Lệ được cấu thành từ những dải núi xếp liên tiếp nhau, hướng từ phía đất liền vươn dần ra tới biển. Núi Trường Lệ được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt. (Quyết định số 1954/QĐ-TTg ngày 31/12/2019).

21

Bổ sung di tích quốc gia đặc biệt. Bổ sung lý lịch.

Cô Tiên

Đền Cô Tiên nằm trên đỉnh hòn Đầu Voi cuối dãy núi Trường Lệ về phía Tây Nam. Hòn Đầu Voi là hòn thứ năm trong hệ thống phân loại dân gian. Nó có tên chữ là “Tượng Đầu Sơn” cũng có nghĩa núi Đầu Voi, vì dãy núi Trường Lệ đang chạy dài đến chỗ này chợt nhô ra một hòn hình dáng như đầu con voi đang cúi mình uống nước. Đền Cô Tiên được xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt. (Quyết định số 1954/QĐ-TTg ngày 31/12/2019).

41

Bổ sung di tích Quốc gia đặc biệt. Bổ sung lý lịch.

2

Huyện Nga Sơn

(03 tên)

Hữu Loan

Là nhà thơ Việt Nam.

77

Cụm từ “nhà văn” chưa chính xác sửa lại thành “nhà thơ”.

Mai An Tiêm

Mai An Tiêm (?-?), là nhân vật có trong truyền thuyết; theo truyền thuyết Mai An Tiêm là con rể của vua Hùng Vương, người đã trồng được giống dưa hấu quý, được coi là ông tổ của nghề trồng dưa hấu tại Việt Nam. Ngày nay, tại xã Nga Phú, huyện Nga Sơn có đền thờ ông và được Nhân dân địa phương tổ chức lễ hội vào ngày 12 đến 15 tháng 3 âm lịch hàng năm.

98

Nội dung phần tóm tắt lý lịch chưa chính xác: “Mai An Tiêm (?-?) quê Thanh Hóa là một nhân vật truyền thuyết thời Hùng Vương, được hư cấu là một người gặp tiên và ở cùng tiên nữ trong chốn tiên cảnh. Tương truyền nơi ông gặp tiên chính là Động Từ Thức”.

Mai Hữu Dụng

Quê làng Nga Lộ (xã Nga Mỹ cũ), nay là tiểu khu Nga Lộ 2 thị trấn Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

119,120

Nội dung quê quán trong phần tóm tắt lý lịch chưa chính xác: “...quê làng Nga Lộ, nay thuộc xã Ba Đình, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa”.

3

Huyện Mường Lát

(03 tên)

Đỉnh Hin Phăng

Đỉnh Hin Phăng, tên dãy núi ở xã Tam Chung, huyện Mường Lát (Nghị định số 72-CP ngày 18/11/1996 của Chính Phủ[220]).

16

Điều chỉnh Đỉnh Hin Phăng của huyện Quan Hóa sang huyện Mường Lát.

Suối Sim

Suối Sim, tên con suối ở huyện Mường Lát; bắt nguồn từ Lào, qua xã Mường Chanh, xã Quang Chiểu, khu phố Tén Tằn và đổ vào Sông Mã (Nghị định số 72-CP ngày 18/11/1996 của Chính Phủ).

18

Điều chỉnh Suối Sim từ huyện Quan Sơn sang huyện Mường Lát.

Quang Chiểu

Quang Chiểu, tên tổng của châu Quan Hóa trước năm 1945, nay là địa bàn xã Quang Chiểu, huyện Mường Lát (Nghị định số 72-CP ngày 18/11/1996 của Chính Phủ).

18

Điều chỉnh Quang Chiểu từ huyện Quan Hóa sang huyện Mường Lát.

4

Thị xã Nghi Sơn (03 tên)

Trần Oanh

Trần Oanh quê làng Ngọc Đường, xã Hải Yến, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Ông là cố xạ thủ bắn súng giỏi nhất thế giới ở thế kỷ XX tại Tiệp Khắc, đã được phong danh thủ thể thao thế giới. Tên ông đã được đặt tên cho một con đường ở thành phố Thanh Hóa.

133

Sửa đổi từ “danh nhân” thành “xạ thủ”.

Lê Minh Huân

Anh hùng liệt sỹ Lê Minh Huân (1936 - 1965), quê xã Hải Hòa, huyện Tĩnh Gia, là Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân. Ông nhập ngũ tháng 3/1953, là trung úy, trung đội trưởng, thuộc Đại đội 1, Trung đoàn 921, Sư đoàn 371 không quân, Bộ Tư lệnh không quân. Ông được truy tặng Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân ngày 30/8/1995. (Nguồn tư liệu do gia đình cung cấp).

150,151

Bổ sung tóm tắt lý lịch.

Vũ Tiến Trung

Vũ Tiến Trung (1944 - 1969), quê Hải Ninh, huyện Tĩnh Gia, là Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân. Ông nhập ngũ năm 1962, là trung đội trưởng bộ binh, bộ đội địa phương Sài Gòn - Gia Định. Ông tham gia nhiều trận đánh lớn nhỏ, đánh sập 02 cầu, đánh chìm 01 tàu, diệt 17 tên địch. Vũ Tiến Trung được tặng thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhất, 02 Huân chương Chiến công giải phóng hạng Ba. (Nguồn tư liệu do gia đình cung cấp).

152

- Bổ sung năm mất: Vũ Tiến Trung (1944 - 1969), bổ sung tóm tắt lý lịch.

5

Huyện Đông Sơn

(01 tên)

Tuân Hóa

Tuyên Hóa là tên một tổng của huyện Đông Sơn trước năm 1945. Còn Tuân Hóa là tên một làng cổ của xã Đông Minh huyện Đông Sơn, Thời Gia Long (1802 - 1819), làng Tuân Hóa thuộc tổng Lê Nguyễn (Theo sách Địa chí huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, năm 2006).

7

Sửa đổi tên “Tuân Hóa” thành “Tuyên Hóa”. Bổ sung tóm tắt lý lịch.

6

Huyện Quan Sơn

( 01 tên)

Bỏ Cúng

Sửa đổi tên địa danh “Bỏ Cúng” thành “Bo Cúng”.

17

 

7

Huyện Thạch Thành

(01 tên)

Cổ Tế

“...Trung đội trực chiến cùng nhân dân xã Thạch Long, huyện Thạch Thành đã nhiều lần bắn trả máy bay Mỹ...”.

19

Sửa đổi từ “bắn hạ” thành “bắn trả”.

8

Huyện Hoằng Hóa

(01 tên)

Huyện Điện Bàn (Quảng Nam)

Huyện Điện Bàn (Quảng Nam) kết nghĩa với huyện Hoằng Hóa.

37

Sửa đổi cụm từ “kết nghĩa với huyện Tĩnh Gia” thành “kết nghĩa với huyện Hoằng Hóa”.

9

Huyện Thường Xuân

(01 ten)

Cầm Bá Thước

Sửa đổi tên “Bản Chiềng Váng” thành “bản Chiếng Ván” (nguyên văn tiếng dân tộc Thái trắng).

97

 

10

Huyện Hậu Lộc

(01 tên)

Đinh Chương Long

Đinh Chương Long (1912-?), là con trai đầu của nhà cách mạng Đinh Chương Dương. Năm 1925, khi còn là niên thiếu được Bác Hồ chọn là một trong 8 thiếu niên tham gia huấn luyện theo chương trình của Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội và được Bác đặt bí danh là Lý Văn Minh. Năm 1938, được Đảng và Bác cử đi học ở trường Đại học Phương Đông ở Liên Xô. Năm 1941, Liên Xô bị Đức tấn công, phong tỏa, ông cùng với các chiến sỹ quốc tế gồm những người đến từ nhiều quốc gia khác nhau: Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Việt Nam, Braxin... .tham gia “Lữ đoàn quốc tế” chiến đấu bảo vệ Matxcova. (Theo trang 557, 558 của Địa chí Hậu Lộc, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, năm 2018).

129

Bổ sung năm sinh (1912 - ?). Sửa đổi lý lịch: Đinh Chương Long “từng tham gia phong trào Cần Vương chống Pháp và khởi nghĩa Ba Đình” là chưa đúng. Khởi nghĩa Ba Đình diễn ra năm 1886 - 1887 trong khi Năm 1912 ông mới sinh.

11

Ông Hoàng Lê Hổ

(Thành phố Hồ Chí Minh)

Hoàng Lệ Kha

Sửa đổi tên “Hoàng Lệ Kha” thành “Hoàng Lê Kha”.

70

 

12

Thành viên Ban biên soạn (03 tên)

Doãn Bằng Hài

Sửa đổi tên “Doãn Bằng Hài” thành “Doãn Bang Hiến”.

122

 

Doãn Anh Khải

Sửa đổi tên “Doãn Anh Khải” thành “Doãn Anh Khái”.

126

 

Lê Khắc Tuyến

Sửa đổi tên “Lê Khắc Tuyến” đổi thành “Lê Khắc Khuyến”.

147

 

 



[1] Hàm Long được dùng đặt tên cho một phố của phường Hàm Rồng, thành phố Thanh Hóa.

[2] Tại mục này, cơ quan thường trực đang tập hợp đề xuất đưa vào tổng số các tên phủ, tổng, châu có trong sách Đồng Khánh địa dư chí. Cụ thể, theo Đồng Khánh địa dư chí có: 05 phủ (phủ Hà Trung, phủ Thiệu Hóa, phủ Tĩnh Gia, phủ Quảng Hóa, phủ Thọ Xuân). Hiện tại 01 phủ: Quảng Hóa không còn được dùng, tuy nhiên đã có trong Nghị Quyết số 90/2017/NQ-HĐND, 03 phủ hiện dùng tên của các huyện, thị; 01 phủ Tĩnh Gia đã không còn tên do sáp nhập. Cơ quan thường trực đề xuất đưa tên Tĩnh Gia vào); có 128 tổng, trong đó có 03 tổng đến nay thuộc địa danh hành chính Lào (tổng Trình Cố; tổng Chấp Yết; tổng Trình Phủ); bổ sung vào lần này 90 tên tổng; 31 tên tổng hiện một số có tại Nghị quyết số 90/2017/NQ-HĐND; 02 tên tổng hiện đang là tên đơn vị hành chính cấp huyện (tổng Ngọc Lặc, tổng Yên Định); Có 19 châu, huyện, trong đó đưa vào 05 châu, huyện (Mỹ Hóa, Thụy Nguyên, Quảng Tế, Lôi Dương, Lương Chánh); có 02 tên đã có Nghị quyết số 90/2017/NQ-HĐND, 12 tên hiện các đơn vị hành chính cấp huyện, thị đang dùng (huyện Nga Sơn, Hoằng Hóa, Hậu Lộc, Đông Sơn, Yên Định, Quảng Xương, Nông Cống, Vĩnh Lộc, Thạch Thành, Quan Hóa, Cẩm Thủy, Thường Xuân).

[3] Dẫn nguồn: Trang 1150, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[4] Dẫn nguồn: Trang 1143, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[5] Dẫn nguồn: Trang 1144, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[6] Dẫn nguồn: Trang 1093, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[7] Dẫn nguồn: Trang 1133, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[8] Dẫn nguồn: Trang 1133, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[9] Dẫn nguồn: Trang 1099, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[10] Vạn Lai - Yên Trường: Đã được đặt tên tại Nghị quyết số 247/NQ-HĐND ngày 12/12/2019 của Hội đồng nhân dân tỉnh về việc đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.

[11] Dẫn nguồn: Trang 1133, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[12] Dẫn nguồn: Trang 1150, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[13] Dẫn nguồn: Trang 1146, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[14] Dẫn nguồn: Trang 1090, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[15] Dẫn nguồn: Trang 1145, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[16] Dẫn nguồn: Trang 1131, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[17] Dẫn nguồn: Trang 1136, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[18] Dẫn nguồn: Trang 1130, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[19] Dẫn nguồn: Trang 1087, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[20] Dẫn nguồn: Trang 1125, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[21] Dẫn nguồn: Trang 1133, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[22] Dẫn nguồn: Trang 1137, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[23] Dẫn nguồn: Trang 1139, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[24] Dẫn nguồn: Trang 1137, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[25] Dẫn nguồn: Trang 1105, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[26] Dẫn nguồn: Trang 1094, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[27] Dẫn nguồn: Trang 1096, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[28] Dẫn nguồn: Trang 1146, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[29] Dẫn nguồn: Trang 1086, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[30] Dẫn nguồn: Trang 1124, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[31] Dẫn nguồn: Trang 1082, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[32] Dẫn nguồn: Trang 1123, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[33] Dẫn nguồn: Trang 1086, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[34] Dẫn nguồn: Trang 1096, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[35] Dẫn nguồn: Trang 1093, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[36] Dẫn nguồn: Trang 1094, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[37] Dẫn nguồn: Trang 1140, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[38] Dẫn nguồn: Trang 1089, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[39] Dẫn nguồn: Trang 1135, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[40] Dẫn nguồn: Trang 1150, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[41] Dẫn nguồn: Trang 1137, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[42] Dẫn nguồn: Trang 1144, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[43] Dẫn nguồn: Trang 1126, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[44] Dẫn nguồn: Trang 1125, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[45] Dẫn nguồn: Trang 1124, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[46] Dẫn nguồn: Trang 1124, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[47] Dẫn nguồn: Trang 1124, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[48] Dẫn nguồn: Trang 1097, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[49] Dẫn nguồn: Trang 1114, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[50] Dẫn nguồn: Trang 1094, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[51] Dẫn nguồn: Trang 1137, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[52] Dẫn nguồn: Trang 1101, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[53] Dẫn nguồn: Trang 1086, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[54] Dẫn nguồn: Trang 1139, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[55] Dẫn nguồn: Trang 1146, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[56] Dẫn nguồn: Trang 1083, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[57] Dẫn nguồn: Trang 1131, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[58] Dẫn nguồn: Trang 1144, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[59] Dẫn nguồn: Trang 1130, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[60] Dẫn nguồn: Trang 1136, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[61] Dẫn nguồn: Trang 1091, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[62] Dẫn nguồn: Trang 1086, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[63] Dẫn nguồn: Trang 1101, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[64] Dẫn nguồn: Trang 1101, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[65] Dẫn nguồn: Trang 1134, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[66] Dẫn nguồn: Trang 1102, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[67] Dẫn nguồn: Trang 1139, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[68] Dẫn nguồn: Trang 1130, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[69] Dẫn nguồn: Trang 1138, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[70] Dẫn nguồn: Trang 1105, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[71] Dẫn nguồn: Trang 1102, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[72] Dẫn nguồn: Trang 1150, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[73] Dẫn nguồn: Trang 1140, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[74] Dẫn nguồn: Trang 1131, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[75] Dẫn nguồn: Trang 1150, sách Đồng Khánh địa dư chí

[76] Dẫn nguồn: Trang 1145, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[77] Dẫn nguồn: Trang 1086, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[78] Dẫn nguồn: Trang 1130, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[79] Dẫn nguồn: Trang 1150, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[80] Dẫn nguồn: Trang 1140, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[81] Dẫn nguồn: Trang 1099, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[82] Dẫn nguồn: Trang 1120, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[83] Dẫn nguồn: Trang 1150, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[84] Dẫn nguồn: Trang 1082, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[85] Dẫn nguồn: Trang 1145, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[86] Dẫn nguồn: Trang 1150, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[87] Dẫn nguồn: Trang 1135, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[88] Dẫn nguồn: Trang 1083, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[89] Dẫn nguồn: Trang 1135, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[90] Dẫn nguồn: Trang 1089, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[91] Dẫn nguồn: Trang 1116, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[92] Dẫn nguồn: Trang 1135, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[93] Dẫn nguồn: Trang 1105, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[94] Dẫn nguồn: Trang 1125, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[95] Dẫn nguồn: Trang 1139, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[96] Dẫn nguồn: Trang 1116, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[97] Dẫn nguồn: Trang 1114, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[98] Dẫn nguồn: Trang 1117, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[99] Dẫn nguồn: Trang 1124, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[100] Dẫn nguồn: Trang 1115, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[101] Theo nhà nghiên cứu Cao Sơn Hải ghi chép.

[102] Mường: Là khu vực tự quản của một Lang đạo.

[103] Dẫn nguồn: Trang 18, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[104] Dẫn nguồn: Trang 15, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[105] Dẫn nguồn: Trang 33, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 2, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2001.

[106] Dẫn nguồn: Trang 38, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 2, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2001.

[107] Kẻ - là từ chỉ một khu vực, một vùng đất tương đương với đơn vị hành chính như làng, xã.

[108] Dẫn nguồn: Trang 47, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[109] Dẫn nguồn: Trang 45, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[110] Dẫn nguồn: Trang 1105, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[111] Dẫn nguồn: Trang 1105, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[112] Dẫn nguồn: Trang 1105, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[113] Dẫn nguồn: Trang 1082, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[114] Dẫn nguồn: Trang 24, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[115] Dẫn nguồn: Trang 29, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[116] Dẫn nguồn: Trang 1083, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[117] Dẫn nguồn: Trang 1086, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[118] Dẫn nguồn: Trang 1082, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[119] Trang: Tên dùng để chỉ đơn vị hành chính dưới thời Nguyễn (trang, sở, xã, thôn.)

[120] Theo Địa chí huyện Hà Trung, trang 102 và Lịch sử Đảng bộ xã Hà Long, trang 20.

[121] Dẫn nguồn: Trang 1082, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[122] Dẫn nguồn: Trang 40, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[123] Nam Khê đã được đặt tên tại Nghị quyết số 142/NQ-HĐND ngày 13/12/2018 của Hội đồng nhân dân tỉnh về việc đặt tên các cầu lớn vượt qua các sông thuộc tuyến đường bộ ven biển Việt Nam đoạn qua tỉnh Thanh Hóa.

[124] Dẫn nguồn: Trang 46, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[125] Năm 1221, làng Bồ Điền được đổi tên thành làng Phú Điền. Làng Phú Điền được phân chia thành 12 ngõ lát đá, được đặt tên từng ngõ gồm: Ngõ Chùa, Ngõ Củi, Ngõ Liễu, Ngõ Mạc, Ngõ Nang, Ngõ Nhãn, Ngõ Nhồi, Ngõ Thị, Ngõ Bồ Ngòn, Ngõ Củng, Ngõ Y Môn lớn, Ngõ Y Môn bé. (Theo Lịch làng Phú Điền, trang 3).

[126] Đông Lưu: Đã được đặt tên tại Nghị quyết số 142/NQ-HĐND ngày 13/12/2018.

[127] Dẫn nguồn: Trang 87, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[128] Dẫn nguồn: Trang 1093, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[129] Dẫn nguồn: Trang 82, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[130] Theo Làng xã Thanh Hóa, tập 1, trang 64.

[131] Theo Quyết định số 185-TCCP ngày 13/4/1991 của Ban Tổ chức Chính phủ.

[132] Bảo Ninh Lương: Đã được đặt tên tại Nghị quyết số 277/NQ-HĐND ngày 16/6/2020 của Hội đồng nhân dân tỉnh Thanh Hóa về việc đặt tên đường trên địa bàn thị trấn Lang Chánh, huyện Lang Chánh.

[133] Mường Chính: Đã được đặt tên tại Nghị quyết số 277/NQ-HĐND ngày 16/6/2020.

[134] Quang Hiến: Đã được đặt tên tại Nghị quyết số 277/NQ-HĐND ngày 16/6/2020.

[135] Văn Hiến: Đã được đặt tên tại Nghị quyết số 277/NQ-HĐND ngày 16/6/2020.

[136] Từ Đoàn kết đã có trong Ngân hàng tên tại Nghị quyết số 90/2017/NQ-HĐND mục là danh từ có ý nghĩa, tuy nhiên Ủy ban nhân dân huyện Mường Lát muốn dùng từ Đoàn Kết với vai trò là 1 địa danh, tên dùng đặt là Bản Đoàn Kết.

[137] Lạch Sung: Đã được đặt tên tại Nghị quyết số 142/NQ-HĐND ngày 13/12/2018.

[138] Thanh Bình: Đã được đặt tên tại Nghị quyết số 142/NQ-HĐND ngày 13/12/2018.

[139] Trang 1086, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[140] Dẫn nguồn: Trang 75, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 2, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[141] Dẫn nguồn: Trang 85, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 2, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[142] Dẫn nguồn: Trang 196, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[143] Dẫn nguồn: Trang 207, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[144] Dẫn nguồn: Trang 199, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[145] Dẫn nguồn: Trang 201, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[146] Dẫn nguồn: trang 217, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[147] Dẫn nguồn: Trang 201, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[148] Dẫn nguồn: Trang 1114, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[149] Sau cách mạng tháng tám (1945) bỏ "châu" đổi thành huyện Ngọc Lặc.

[150] Mường là một vùng (vùng mường, kiểu như: Mường Chẹ, Mường Bi, Mường Vang...)

[151] Di tích cấp tỉnh, tuy nhiên đây là địa chỉ cách mạng có ý nghĩa, địa danh nhiều người biết đến nên đề xuất đưa vào.

[152] Từ Vinh Quang đã có trong Ngân hàng tên tại Nghị quyết số 90/2017/NQ-HĐND mục là danh từ có ý nghĩa, tuy nhiên Ủy ban nhân dân huyện Quan Hóa muốn dùng từ Vinh Quang với vai trò là 1 địa danh, tên dùng đặt là Hồ Vinh Quang.

[153] Thạch Châu: Đã được đặt tên tại Nghị quyết số 142/NQ-HĐND ngày 13/12/2018.

[154] Cửa Hới: Đã được đặt tên tại Nghị quyết số 142/NQ-HĐND ngày 13/12/2018.

[155] Bôn Giàng là tên một con đường.

[156] Cát Đằng là tên một con đường.

[157] Cát Hòa, Cát Khang, Cát Phú, Cát Thành, Cát Tiến là tên một con đường.

[158] Đồng Bài: Là tên một tuyến đường.

[159] Đồng Bái: Là tên một cánh đồng.

[160] Đồng Bái: Đã được đặt tên tại Nghị quyết số 247/NQ-HĐND ngày 12/12/2019.

[161] Đồng Mai: Là tên một tuyến đường.

[162] Duy Tiếu: Đã được đặt tên tại Nghị quyết số 247/NQ-HĐND ngày 12/12/2019.

[163] Đức Hậu: Đã được đặt tên tại Nghị quyết số 247/NQ-HĐND ngày 12/12/2019.

[164] Nhân Phong: Đã được đặt tên tại Nghị quyết số 247/NQ-HĐND ngày 12/12/2019.

[165] Hưng Thuận: Đã được đặt tên tại Nghị quyết số 247/NQ-HĐND ngày 12/12/2019.

[166] Hưng Xá: Đã được đặt tên tại Nghị quyết số 247/NQ-HĐND ngày 12/12/2019.

[167] Thủ Phác: Đã được đặt tên tại Nghị quyết số 247/NQ-HĐND ngày 12/12/2019.

[168] Lý Cát là tên một tuyến đường.

[169] Văn Chỉ là tên một tuyến đường.

[170] Văn Thọ: Đã được đặt tên tại Nghị quyết số 247/NQ-HĐND ngày 12/12/2019.

[171] Dẫn nguồn: Trang 147, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[172] Dẫn nguồn: Trang 146, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[173] Dẫn nguồn: Trang 154, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[174] Dẫn nguồn: Trang 153, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[175] Dẫn nguồn: Trang 1101, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[176] Dẫn nguồn: Trang 184, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[177] Dẫn nguồn: Trang 146, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[178] Dẫn nguồn: Trang 151, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[179] Dẫn nguồn: Trang 151, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[180] Dẫn nguồn: Trang 150, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[181] Dẫn nguồn: Trang 147, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[182] Dẫn nguồn: Trang 183, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[183] Dẫn nguồn: Trang 162, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[184] Dẫn nguồn: Trang 183, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[185] Dẫn nguồn: Trang 161, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[186] Dẫn nguồn: Trang 176, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[187] Dẫn nguồn: Trang 159, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[188] Dẫn nguồn: Trang 176, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[189] Dẫn nguồn: Trang 176, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[190] Dẫn nguồn: Trang 176, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[191] Dẫn nguồn: Trang 170, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[192] Dẫn nguồn: Trang 217, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 2, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[193] Dẫn nguồn: Trang 218, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 2, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[194] Dẫn nguồn: Trang 218, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 2, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[195] Dẫn nguồn: Trang 218, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 2, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[196] Dẫn nguồn: Trang 1145, sách Đồng Khánh địa dư chí.

[197] Dẫn nguồn: Trang 251, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 2, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[198] Hoa Nhai là tên một con đường cổ.

[199] Dẫn nguồn: Trang 221, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[200] Dẫn nguồn: Trang 230, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[201] Dẫn nguồn: Trang 226, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[202] Dẫn nguồn: Trang 231, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[203] Dẫn nguồn: Trang 224, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[204] Dẫn nguồn: Trang 224, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[205] Dẫn nguồn: Trang 231, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[206] Dẫn nguồn: Trang 224, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[207] Dẫn nguồn: Trang 231, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[208] Dẫn nguồn: Trang 225, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[209] Dẫn nguồn: Trang 223, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[210] Dẫn nguồn: Trang 226, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[211] Dẫn nguồn: Trang 250, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[212] Dẫn nguồn: Trang 240, sách Tên làng xã Thanh Hóa, tập 1, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 2000.

[213] Theo Địa chí huyện Hậu Lộc trang 317.

[214] Ngày 08/5 (dương lịch) hằng năm là ngày kỷ niệm Danh xưng Thanh Hóa được ban hành tại Nghị quyết số 112/NQ-HĐND ngày 11/7/2018.

[215] Mười lăm tháng hai (15/02): Đã được đặt tên tại Nghị quyết số 277/NQ-HĐND ngày 16/6/2020.

[216] Dẫn nguồn theo dịch thuật lý lịch tại văn bia đặt tại đền thờ Tướng quân Khằm Ban thị trấn Hồi Xuân, huyện Quan Hóa. Phạm Tộc thần từ bi dựng niên hiệu Duy Tân thứ 1 năm 1907 hiện dựng ở đền thờ.

[217] Theo sách Địa chí Thanh Hóa tập IV. Nhân vật chí trang 637.

[218] Phan Kiêm Toàn (theo sách Danh sĩ Thanh Hóa và việc học thời xưa, trang 61).

[219] Từ “tên” dùng trong văn bản này được hiểu theo duy nhất một nghĩa, dùng viết tắt, gọi tắt cho tên gọi của các cụm từ: Tên danh nhân, nhân vật lịch sử; tên phong trào cách mạng; tên địa danh, tên danh từ có ý nghĩa tiêu biểu, tên di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh.

[220] Nghị định của Chính phủ số 72-CP ngày 18 tháng 11 năm 1996 về việc điều chỉnh địa giới hành chính các huyện Quan Hóa, Như Xuân, Đông Sơn, Thiệu Yên thuộc tỉnh Thanh Hóa.

Nội dung văn bản đang được cập nhật

Nghị quyết 33/2024/NQ-HĐND sửa đổi phụ lục Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa kèm theo Nghị quyết 90/2017/NQ-HĐND

Số hiệu: 33/2024/NQ-HĐND
Loại văn bản: Nghị quyết
Nơi ban hành: Tỉnh Thanh Hóa
Người ký: Đỗ Trọng Hưng
Ngày ban hành: 10/07/2024
Ngày hiệu lực: Đã biết
Tình trạng: Đã biết
Văn bản được hướng dẫn - [0]
Văn bản được hợp nhất - [0]
Văn bản bị sửa đổi bổ sung - [1]
Văn bản bị đính chính - [0]
Văn bản bị thay thế - [0]
Văn bản được dẫn chiếu - [6]
Văn bản được căn cứ - [9]
Văn bản liên quan ngôn ngữ - [0]

Văn bản đang xem

Nghị quyết 33/2024/NQ-HĐND sửa đổi phụ lục Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa kèm theo Nghị quyết 90/2017/NQ-HĐND

Văn bản liên quan cùng nội dung - [3]
Văn bản hướng dẫn - [0]
Văn bản hợp nhất - [0]
Văn bản sửa đổi bổ sung - [0]
Văn bản đính chính - [0]
Văn bản thay thế - [0]
Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Tài khoản để biết được tình trạng hiệu lực, tình trạng đã bị sửa đổi, bổ sung, thay thế, đính chính hay đã được hướng dẫn chưa của văn bản và thêm nhiều tiện ích khác
Loading…