CHÍNH
PHỦ |
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 67/1999/NĐ-CP |
Hà Nội, ngày 07 tháng 8 năm 1999 |
NGHỊ ĐỊNH
CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 67/1999/NĐ-CP NGÀY 07 THÁNG 8 NĂM 1999 QUY ĐỊNH CHI TIẾT VÀ HƯỚNG DẪN THI HÀNH LUẬT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ
ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Căn cứ Luật Khiếu nại, tố cáo ngày 02 tháng 12 năm 1998;
Theo đề nghị của Tổng Thanh tra Nhà nước,
NGHỊ ĐỊNH:
KHIẾU NẠI, GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH, HÀNH VI HÀNH CHÍNH
MỤC 1: KHIẾU NẠI VÀ VIỆC XỬ LÝ ĐƠN KHIẾU NẠI
Điều 1. Khiếu nại được cơ quan Nhà nước thụ lý để giải quyết khi có đủ các điều kiện sau đây:
1. Người khiếu nại phải là người có quyền, lợi ích hợp pháp chịu tác động trực tiếp bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính mà mình khiếu nại;
2. Người khiếu nại phải là người có năng lực hành vi đầy đủ theo quy định của Bộ Luật Dân sự hoặc là người chưa có năng lực hành vi đầy đủ nhưng theo quy định của pháp luật có quyền khiếu nại; trong trường hợp thông qua người đại diện để thực hiện việc khiếu nại thì người đại diện phải theo quy định tại Điều 2 của Nghị định này;
3. Người khiếu nại phải làm đơn khiếu nại và gửi đến đúng cơ quan có thẩm quyền giải quyết trong thời hiệu, thời hạn theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo;
4. Việc khiếu nại chưa có quyết định giải quyết cuối cùng;
5. Việc khiếu nại chưa được Toà án thụ lý để giải quyết.
1. Công dân là người chưa thành niên, người bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì thông qua người đại diện theo pháp luật để thực hiện quyền khiếu nại; khi thực hiện việc khiếu nại, người đại diện phải có giấy tờ để chứng minh với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về việc đại diện hợp pháp của mình.
Người ốm đau, già yếu, có nhược điểm về thể chất hoặc vì lý do khách quan khác mà không thể tự mình khiếu nại thì có thể uỷ quyền cho người đại diện là cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em ruột đã thành niên để thực hiện việc khiếu nại; việc uỷ quyền khiếu nại phải lập thành văn bản có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người uỷ quyền hoặc nơi người được ủy quyền cư trú.
2. Cơ quan thực hiện quyền khiếu nại thông qua người đại diện là Thủ trưởng cơ quan đó.
3. Tổ chức thực hiện quyền khiếu nại thông qua người đại diện là người đứng đầu tổ chức đó được quy định trong quyết định thành lập tổ chức hoặc trong Điều lệ của tổ chức.
Điều 5. Cơ quan Nhà nước khi nhận được đơn khiếu nại thì xử lý như sau:
1. Đối với đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của mình và đủ các điều kiện quy định tại Điều 1 của Nghị định này thì cơ quan nhận được phải thụ lý để giải quyết; trong trường hợp đơn khiếu nại có chữ ký của nhiều người thì có trách nhiệm hướng dẫn người khiếu nại viết thành đơn riêng để thực hiện việc khiếu nại;
2. Đối với đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của mình nhưng không đủ các điều kiện thụ lý để giải quyết theo quy định tại Điều 1 của Nghị định này thì có trách nhiệm trả lời bằng văn bản cho người khiếu nại biết rõ lý do;
3. Đối với đơn vừa có nội dung khiếu nại, vừa có nội dung tố cáo thì cơ quan nhận được có trách nhiệm xử lý nội dung khiếu nại theo quy định tại điểm 1, điểm 2 và điểm 5 Điều này, còn nội dung tố cáo thì xử lý theo quy định tại Điều 43 của Nghị định này;
4. Đối với đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp dưới nhưng quá thời hạn quy định mà chưa được giải quyết thì cơ quan cấp trên trực tiếp nhận được có trách nhiệm thụ lý để giải quyết;
5. Đối với đơn khiếu nại không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình, đơn khiếu nại về vụ việc đã có quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng thì cơ quan nhận được đơn không có trách nhiệm thụ lý mà thông báo và chỉ dẫn cho người khiếu nại bằng văn bản. Việc thông báo chỉ thực hiện một lần đối với một vụ việc khiếu nại; trong trường hợp người khiếu nại gửi kèm các giấy tờ, tài liệu là bản gốc liên quan đến vụ việc khiếu nại thì cơ quan nhận được đơn trả lại các giấy tờ, tài liệu đó cho người khiếu nại.
MỤC 2: TRÁCH NHIỆM CỦA THỦ TRƯỞNG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI
1. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền theo trình tự, thủ tục quy định tại Luật Khiếu nại, tố cáo.
Nếu thấy vụ việc khiếu nại có nội dung rõ ràng, có đủ căn cứ để giải quyết thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã ra quyết định giải quyết ngay.
Nếu thấy vụ việc khiếu nại có nội dung chưa rõ ràng, chưa đủ căn cứ để giải quyết thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã phải tiến hành thẩm tra, xác minh, gặp gỡ người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền, lợi ích liên quan để làm rõ nội dung khiếu nại, yêu cầu của người khiếu nại trước khi ra quyết định giải quyết khiếu nại. Căn cứ vào kết quả thẩm tra, xác minh và quy định của pháp luật, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã ra quyết định giải quyết khiếu nại trong thời hạn quy định tại Luật Khiếu nại, tố cáo.
2. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm gửi quyết định giải quyết khiếu nại cho người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền, lợi ích liên quan và Uỷ ban nhân dân cấp huyện; khi cần thiết thì công bố công khai quyết định giải quyết khiếu nại.
3. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm thi hành, tổ chức thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật trong phạm vi trách nhiệm của mình.
1. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền theo trình tự, thủ tục quy định tại Luật Khiếu nại, tố cáo.
a) Đối với khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện giao cho Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện hoặc Chánh thanh tra cấp huyện xem xét, kết luận và kiến nghị việc giải quyết;
b) Đối với khiếu nại mà Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã, trưởng phòng, ban chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện đã giải quyết nhưng còn có khiếu nại thì giao cho Chánh Thanh tra cấp huyện tiến hành xác minh, kết luận và kiến nghị việc giải quyết;
c) Căn cứ vào báo cáo xác minh, kết luận và kiến nghị việc giải quyết khiếu nại, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện ra quyết định giải quyết hoặc uỷ quyền cho Chánh thanh tra cùng cấp ra quyết định giải quyết theo quy định tại khoản 1, Điều 20 Nghị định này và theo thời hạn quy định tại Luật Khiếu nại, tố cáo.
2. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện hoặc Chánh thanh tra cấp huyện được uỷ quyền ra quyết định giải quyết có trách nhiệm gửi quyết định giải quyết khiếu nại cho người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền, lợi ích liên quan và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh; khi cần thiết thì công bố công khai quyết định giải quyết khiếu nại.
3. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm thi hành, tổ chức thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật trong phạm vi trách nhiệm của mình; kiểm tra, đôn đốc cơ quan, đơn vị cấp dưới trong việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật.
1. Giám đốc Sở và cấp tương đương thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh (gọi chung là Giám đốc Sở) có trách nhiệm giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền theo trình tự, thủ tục quy định tại Luật Khiếu nại, tố cáo.
a) Đối với khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, của cán bộ công chức do mình quản lý trực tiếp thì Giám đốc Sở giao cho Thủ trưởng phòng, ban chuyên môn thuộc Sở hoặc Chánh thanh tra Sở xem xét, kết luận và kiến nghị việc giải quyết;
b) Đối với khiếu nại mà Thủ trưởng cơ quan thuộc Sở đã giải quyết nhưng còn có khiếu nại thì giao cho Chánh thanh tra cấp Sở tiến hành xác minh, kết luận và kiến nghị việc giải quyết;
c) Căn cứ vào báo cáo xác minh, kết luận và kiến nghị việc giải quyết khiếu nại, Giám đốc Sở ra quyết định giải quyết trong thời hạn quy định tại Luật Khiếu nại, tố cáo.
2. Giám đốc Sở có trách nhiệm gửi quyết định giải quyết khiếu nại cho người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền, lợi ích liên quan và người có thẩm quyền giải quyết tiếp theo; khi cần thiết thì công bố công khai quyết định giải quyết khiếu nại.
3. Giám đốc Sở có trách nhiệm thi hành, tổ chức thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật trong phạm vi trách nhiệm của mình; kiểm tra, đôn đốc cơ quan, đơn vị cấp dưới trong việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật.
1. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền theo trình tự, thủ tục quy định tại Luật Khiếu nại, tố cáo;
a) Đối với khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh giao cho Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh hoặc Chánh thanh tra cấp tỉnh xem xét, kết luận và kiến nghị việc giải quyết;
b) Đối với khiếu nại mà Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện đã giải quyết nhưng còn có khiếu nại, khiếu nại mà Giám đốc Sở đã giải quyết nhưng còn có khiếu nại mà nội dung thuộc phạm vi quản lý của mình thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh giao cho Chánh thanh tra cấp tỉnh tiến hành xác minh, kết luận và kiến nghị việc giải quyết;
c) Căn cứ vào báo cáo xác minh, kết luận và kiến nghị việc giải quyết khiếu nại, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định giải quyết hoặc ủy quyền cho Chánh thanh tra cấp tỉnh ra quyết định giải quyết theo quy định tại khoản 2, Điều 20 Nghị định này và theo thời hạn quy định tại Luật khiếu nại tố cáo. Quyết định giải quyết đối với khiếu nại nêu tại điểm a, khoản 1 Điều này là quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu; quyết định giải quyết đối với khiếu nại nêu tại điểm b, khoản 1 Điều này là quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng.
2. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh hoặc Chánh thanh tra cấp tỉnh được uỷ quyền ra quyết định giải quyết có trách nhiệm gửi quyết định giải quyết khiếu nại cho người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền, lợi ích liên quan; nếu là quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng thì gửi Tổng Thanh tra Nhà nước; nếu là quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu thì gửi Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ có thẩm quyền giải quyết tiếp theo đối với vụ việc khiếu nại đó; khi cần thiết thì công bố công khai quyết định giải quyết khiếu nại.
3. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm thi hành, tổ chức thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật trong phạm vi trách nhiệm của mình; kiểm tra, đôn đốc cơ quan, đơn vị cấp dưới trong việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật.
1. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền theo trình tự, thủ tục quy định tại Luật Khiếu nại, tố cáo.
a) Đối với khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, của cán bộ, công chức do mình quản lý trực tiếp thì Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ giao cho Thủ trưởng Cục, Vụ, đơn vị chức năng hoặc Chánh thanh tra cùng cấp xem xét, kết luận và kiến nghị việc giải quyết;
b) Đối với khiếu nại mà Thủ trưởng cơ quan thuộc Bộ, thuộc cơ quan ngang Bộ, thuộc cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Giám đốc Sở đã giải quyết nhưng còn có khiếu nại mà thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì giao cho Chánh thanh tra cùng cấp tiến hành xác minh, kết luận và kiến nghị việc giải quyết;
c) Căn cứ vào báo cáo xác minh, kết luận và kiến nghị việc giải quyết khiếu nại, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ ra quyết định giải quyết trong thời hạn quy định tại Luật Khiếu nại, tố cáo. Quyết định giải quyết khiếu nại nêu tại điểm a, khoản 1 Điều này là quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu; quyết định giải quyết khiếu nại nêu tại điểm b, khoản 1 Điều này của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ là quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng.
2. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm gửi quyết định giải quyết khiếu nại cho người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền, lợi ích liên quan và Tổng Thanh tra Nhà nước; khi cần thiết thì công bố công khai quyết định giải quyết khiếu nại.
3. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm thi hành, tổ chức thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật trong phạm vi trách nhiệm của mình; kiểm tra, đôn đốc cơ quan, đơn vị thuộc thẩm quyền quản lý của mình trong việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật.
1. Tổng Thanh tra Nhà nước có trách nhiệm giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền theo trình tự, thủ tục quy định tại Luật Khiếu nại, tố cáo.
2. Tổng Thanh tra Nhà nước được uỷ quyền để giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của Thủ tướng Chính phủ; trong trường hợp có ý kiến khác nhau giữa Tổng Thanh tra Nhà nước với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ về việc giải quyết thì Tổng Thanh tra Nhà nước báo cáo để Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo việc giải quyết hoặc kiến nghị Thủ tướng Chính phủ ra quyết định giải quyết.
1. Người đã ra quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng khi phát hiện quyết định đó có vi phạm pháp luật gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức thì phải tự xem xét lại để việc giải quyết khiếu nại đúng quy định của pháp luật.
2. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ trong quá trình thực hiện chức năng quản lý Nhà nước của mình, nếu phát hiện quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có vi phạm pháp luật gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức thì yêu cầu người đã ra quyết định xem xét lại quyết định giải quyết đó; trong thời hạn 15 ngày, nếu yêu cầu không được thực hiện thì áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền để yêu cầu đó được thực hiện hoặc báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
3. Tổng Thanh tra Nhà nước, trong quá trình thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo, nếu phát hiện quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng có vi phạm pháp luật gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức thì yêu cầu người đã ra quyết định xem xét lại quyết định giải quyết đó; trong thời hạn 15 ngày, nếu yêu cầu không được thực hiện thì áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền để yêu cầu đó được thực hiện hoặc kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
4. Thời hiệu yêu cầu xem xét lại quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng quy định tại khoản 2, khoản 3 của Điều này là 12 tháng, kể từ ngày quyết định đó có hiệu lực thi hành.
Khi phát hiện quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng có vi phạm pháp luật gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức thì Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo người đã ra quyết định giải quyết đó hoặc giao cho Tổng Thanh tra Nhà nước, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ xem xét, báo cáo để Thủ tướng Chính phủ quyết định.
1. Thủ trưởng cơ quan Nhà nước có trách nhiệm chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc các cơ quan, đơn vị cấp dưới giải quyết kịp thời các khiếu nại thuộc thẩm quyền.
2. Thủ trưởng cơ quan Nhà nước khi nhận được khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp dưới trực tiếp nhưng quá thời hạn quy định mà chưa được giải quyết thì có trách nhiệm thụ lý để giải quyết, đồng thời phải áp dụng biện pháp xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý đối với người thiếu trách nhiệm hoặc cố tình trì hoãn việc giải quyết khiếu nại đó.
1. Trong quá trình giải quyết khiếu nại nếu thấy vụ việc phức tạp, việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có thể sẽ có khó khăn thì người giải quyết khiếu nại triệu tập người khiếu nại, người bị khiếu nại và trong trường hợp cần thiết thì mời người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan và đại diện các cơ quan hữu quan để công bố công khai quyết định giải quyết khiếu nại.
2. Khi công bố công khai quyết định giải quyết khiếu nại, người giải quyết khiếu nại thông báo nội dung khiếu nại, kết quả thẩm tra, xác minh, căn cứ pháp luật để giải quyết khiếu nại, việc giải quyết các vấn đề cụ thể trong nội dung khiếu nại; nêu rõ trách nhiệm của người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan trong việc chấp hành quyết định giải quyết khiếu nại.
MỤC 3: VIỆC UỶ QUYỀN GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI
1. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện ra quyết định giải quyết hoặc uỷ quyền cho Chánh thanh tra cấp huyện ra quyết định giải quyết đối với khiếu nại mà Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã đã giải quyết nhưng còn có khiếu nại trừ những vụ việc khiếu nại phức tạp tồn động, kéo dài.
2. Chủ tịch Uỷ ban nhân cấp tỉnh ra quyết định giải quyết hoặc uỷ quyền cho Chánh thanh tra cấp tỉnh ra quyết định giải quyết đối với khiếu nại mà Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện đã giải quyết nhưng còn có khiếu nại trừ những vụ việc khiếu nại phức tạp tồn động, kéo dài.
3. Việc uỷ quyền ra quyết định giải quyết khiếu nại như quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này phải bằng văn bản. Văn bản uỷ quyền được lưu giữ trong hồ sơ giải quyết khiếu nại.
1. Người uỷ quyền có trách nhiệm đôn đốc, kiểm tra việc giải quyết khiếu nại của người được uỷ quyền và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định giải quyết khiếu nại của người được uỷ quyền.
2. Người được uỷ quyền thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của người giải quyết khiếu nại các lần tiếp theo quy định tại Điều 42, Điều 44 của Luật Khiếu nại, tố cáo và chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước người uỷ quyền về việc giải quyết khiếu nại của mình.
3. Quyết định giải quyết khiếu nại của người được uỷ quyền đóng dấu cơ quan của người được uỷ quyền và có giá trị pháp lý như quyết định giải quyết khiếu nại của người uỷ quyền; quyết định giải quyết khiếu nại của Tổng Thanh tra Nhà nước, Chánh thanh tra cấp tỉnh khi được ủy quyền là quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng.
MỤC 4: VIỆC THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI
1. Ban hành quyết định hành chính để thay thế hoặc sửa đổi quyết định hành chính bị khiếu nại và tổ chức thực hiện quyết định đó, chấm dứt hành vi hành chính bị khiếu nại trong trường hợp nội dung khiếu nại là đúng; bồi thường thiệt hại, khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật;
2. Giải thích, yêu cầu người khiếu nại chấp hành nghiêm chỉnh quyết định giải quyết khiếu nại, nếu nội dung khiếu nại không đúng; trong trường hợp cần thiết yêu cầu các cơ quan chức năng thực hiện các biện pháp theo thẩm quyền để bảo đảm việc thi hành nghiêm chỉnh quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật.
KHIẾU NẠI, GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI QUYẾT ĐỊNH KỶ LUẬT CÔNG CHỨC TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
MỤC 1: THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI QUYẾT ĐỊNH KỶ LUẬT
1. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Giám đốc Sở có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật do mình ký ban hành.
2. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền:
a) Giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật do mình ký ban hành;
b) Giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật mà Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Giám đốc Sở đã giải quyết lần đầu nhưng còn có khiếu nại. Quyết định giải quyết khiếu nại này là quyết định cuối cùng.
Điều 29. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ có thẩm quyền:
1. Giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật do mình ký ban hành;
2. Giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật mà Thủ tưởng cơ quan thuộc Bộ, thuộc cơ quan ngang Bộ, thuộc cơ quan thuộc Chính phủ đã giải quyết lần đầu nhưng còn có khiếu nại. Quyết định giải quyết khiếu nại này là quyết định cuối cùng.
Điều 30. Bộ trưởng, Trưởng Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ có thẩm quyền:
1. Giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật do mình ký ban hành;
2. Giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật mà Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ đã giải quyết lần đầu nhưng còn có khiếu nại, trừ khiếu nại đã có quyết định giải quyết của Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ là Bộ trưởng. Quyết định giải quyết khiếu nại này là quyết định cuối cùng.
MỤC 2: THỦ TỤC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI QUYẾT ĐỊNH KỶ LUẬT
MỤC 1: THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT TỐ CÁO
Tố cáo hành vi vi phạm quy định về nhiệm vụ, công vụ của người thuộc cơ quan nào thì người đứng đầu cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết.
Tố cáo hành vi vi phạm quy định về nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan nào thì người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp của cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết.
Tố cáo hành vi phạm tội do các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
1. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người do mình quản lý trực tiếp.
2. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã, Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng, Trưởng ban, Phó Trưởng ban thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện và những người khác do mình bổ nhiệm và quản lý trực tiếp.
3. Giám đốc Sở có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng thuộc Sở và những người khác do mình bổ nhiệm và quản lý trực tiếp.
4. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Giám đốc, Phó Giám đốc Sở và những người khác do mình bổ nhiệm và quản lý trực tiếp.
5. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, đơn vị thuộc Bộ, thuộc cơ quan ngang Bộ, thuộc cơ quan thuộc Chính phủ và những người khác do mình bổ nhiệm và quản lý trực tiếp.
6. Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của Bộ trưởng, Thứ trưởng, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và những người khác do mình bổ nhiệm và quản lý trực tiếp.
1. Chánh thanh tra cấp huyện có thẩm quyền:
a) Xác minh, kết luận nội dung tố cáo, kiến nghị biện pháp xử lý tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện khi được giao;
b) Xem xét, kết luận nội dung tố cáo mà Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã đã giải quyết nhưng có vi phạm pháp luật; trong trường hợp kết luận việc giải quyết có vi phạm pháp luật thì kiến nghị người đã giải quyết xem xét, giải quyết lại.
2. Chánh thanh tra Sở có thẩm quyền:
a) Xác minh, kết luận nội dung tố cáo, kiến nghị biện pháp xử lý tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Giám đốc Sở khi được giao;
b) Xem xét, kết luận nội dung tố cáo mà Thủ trưởng cơ quan thuộc Sở đã giải quyết nhưng có vi phạm pháp luật; trong trường hợp kết luận việc giải quyết có vi phạm pháp luật thì kiến nghị người đã giải quyết xem xét, giải quyết lại.
3. Chánh thanh tra cấp tỉnh có thẩm quyền:
a) Xác minh, kết luận nội dung tố cáo, kiến nghị biện pháp xử lý tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh khi được giao;
b) Xem xét, kết luận nội dung tố cáo mà Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Giám đốc Sở đã giải quyết nhưng có vi phạm pháp luật; trong trường hợp kết luận việc giải quyết có vi phạm pháp luật thì kiến nghị người đã giải quyết xem xét, giải quyết lại.
4. Chánh thanh tra Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có thẩm quyền:
a) Xem xét, kết luận nội dung tố cáo, kiến nghị biện pháp xử lý tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ khi được giao;
b) Xem xét, kết luận nội dung tố cáo mà Thủ trưởng cơ quan thuộc Bộ, thuộc cơ quan ngang Bộ, thuộc cơ quan thuộc Chính phủ đã giải quyết nhưng có vi phạm pháp luật; trong trường hợp kết luận việc giải quyết có vi phạm pháp luật thì kiến nghị người đã giải quyết xem xét, giải quyết lại.
Điều 41. Tổng Thanh tra Nhà nước có thẩm quyền:
1. Xác minh, kết luận nội dung tố cáo, kiến nghị biện pháp xử lý tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Thủ tướng Chính phủ khi được giao;
2. Xem xét, kết luận về nội dung tố cáo mà Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đã giải quyết nhưng có vi phạm pháp luật; trong trường hợp kết luận việc giải quyết tố cáo có vi phạm pháp luật thì kiến nghị người đã giải quyết xem xét, giải quyết lại.
MỤC 2: THỦ TỤC GIẢI QUYẾT TỐ CÁO
1. Cơ quan Nhà nước nhận được đơn tố cáo có trách nhiệm phân loại và xử lý như sau:
a) Nếu tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì phải thụ lý để giải quyết theo đúng trình tự, thủ tục quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo và Nghị định này;
b) Nếu tố cáo không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì chậm nhất trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được phải chuyển đơn tố cáo hoặc bản ghi lời tố cáo và các tài liệu, chứng cứ liên quan (nếu có) cho người có thẩm quyền giải quyết;
c) Nếu đơn tố cáo không ghi rõ họ, tên, địa chỉ người tố cáo nhưng nội dung rõ ràng, bằng chứng cụ thể, có cơ sở để thẩm tra, xác minh thì Thủ trưởng cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định việc xem xét, xử lý đơn tố cáo đó;
d) Nếu tố cáo hành vi phạm tội thì chuyển cho cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát xử lý theo quy định tại Điều 71 của Luật Khiếu nại, tố cáo.
2. Trong trường hợp hành vi bị tố cáo gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhà nước, của tập thể, tính mạng, tài sản của công dân thì cơ quan nhận được đơn phải báo ngay cho cơ quan chức năng để có biện pháp ngăn chặn.
3. Trong trường hợp, Thủ trưởng cơ quan Nhà nước các cấp, các ngành nhận được thông tin người tố cáo bị đe dọa, trù dập, trả thù thì phải có trách nhiệm chỉ đạo hoặc phối hợp với các cơ quan chức năng liên quan làm rõ, có biện pháp bảo vệ người tố cáo, ngăn chặn và đề nghị cấp có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật người có hành vi đe dọa, trù dập, trả thù người tố cáo.
Sau khi kết thúc việc xác minh, người được giao nhiệm vụ xác minh phải có văn bản kết luận về nội dung tố cáo và phải có những chứng cứ để chứng minh cho kết luận của mình.
1. Trong trường hợp người bị tố cáo không vi phạm pháp luật, không vi phạm các quy định về nhiệm vụ, công vụ thì phải có kết luận rõ và thông báo bằng văn bản cho người bị tố cáo, cơ quan quản lý người bị tố cáo biết, đồng thời xử lý hoặc kiến nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý người cố tình tố cáo sai sự thật;
2. Trong trường hợp người bị tố cáo có vi phạm pháp luật, vi phạm các quy định về nhiệm vụ, công vụ phải xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính thì xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý, đồng thời áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật để quyết định, kiến nghị xử lý được chấp hành nghiêm chỉnh;
3. Trong trường hợp hành vi bị tố cáo có dấu hiệu tội phạm thì chuyển hồ sơ vụ việc cho cơ quan Điều tra hoặc Viện kiểm sát để giải quyết theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Thủ trưởng cơ quan Nhà nước phải tổ chức và quản lý nơi tiếp công dân của cơ quan mình; ban hành nội quy tiếp công dân; bố trí nơi tiếp công dân tại địa điểm thuận tiện; bảo đảm các điều kiện vật chất cần thiết để công dân đến trình bày khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh liên quan đến khiếu nại, tố cáo.
Tại nơi tiếp công dân phải niêm yết lịch tiếp công dân và nội quy tiếp công dân. Lịch tiếp công dân phải được ghi cụ thể thời gian, chức vụ người tiếp công dân. Nội quy tiếp công dân phải ghi rõ trách nhiệm của người tiếp công dân, quyền và nghĩa vụ của người đến khiếu nại, tố cáo.
1. Thủ trưởng cơ quan Nhà nước có trách nhiệm định kỳ trực tiếp tiếp công dân theo quy định tại Điều 76 của Luật Khiếu nại, tố cáo; lịch tiếp công dân phải được thông báo công khai cho công dân biết.
2. Ngoài việc tiếp công dân theo định kỳ, Thủ trưởng cơ quan Nhà nước phải tiếp công dân khi có yêu cầu khẩn thiết.
3. Đối với những khiếu nại thuộc thẩm quyền mà vụ việc rõ ràng, cụ thể, có cơ sở giải quyết thì khi tiếp công dân, Thủ trưởng cơ quan Nhà nước phải trả lời ngay cho công dân biết; nếu vụ việc phức tạp cần nghiên cứu, xem xét thì phải nói rõ thời hạn giải quyết, người cần liên hệ tiếp để biết kết quả giải quyết.
4. Việc tiếp công dân của Thủ trưởng cơ quan Nhà nước phải được ghi chép vào sổ tiếp công dân và được lưu giữ tại nơi tiếp công dân.
Điều 54. Việc xử lý khiếu nại, tố cáo tại nơi tiếp công dân được tiến hành như sau:
1. Đối với đơn khiếu nại thì xử lý theo quy định tại Điều 5 của Nghị định này; trong trường hợp công dân đến khiếu nại trực tiếp mà vụ việc khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan mình thì người tiếp công dân hướng dẫn họ viết thành đơn hoặc ghi lại nội dung khiếu nại và yêu cầu công dân ký tên hoặc điểm chỉ; nếu vụ việc khiếu nại không thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan mình thì hướng dẫn công dân khiếu nại đến đúng cơ quan có thẩm quyền giải quyết;
2. Đối với tố cáo thì người tiếp công dân phải tiếp nhận, phân loại và xử lý theo quy định tại các Điều 43, 44 và Điều 45 của Nghị định này.
Các cơ quan khác của Nhà nước căn cứ vào quy định tại Chương V của Luật Khiếu nại, tố cáo, Nghị định này và tình hình khiếu nại, tố cáo liên quan đến ngành, lĩnh vực của mình quản lý để bố trí thời gian tiếp công dân.
1. Việc tổ chức tiếp công dân của Trung ương Đảng và Nhà nước tại Trụ sở tiếp công dân ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh thực hiện theo Nghị định số 89/CP ngày 7 tháng 8 năm 1997 của Chính phủ ban hành Quy chế tổ chức tiếp công dân.
2. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh bố trí địa điểm chung để Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại diện tổ chức chính trị tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo; cử một cán bộ Phó văn phòng hoặc cấp tương đương phụ trách nơi tiếp công dân để tổ chức thực hiện chế độ tiếp dân thường xuyên.
Uỷ ban nhân dân cấp xã, Công an tại các địa phương có trách nhiệm bảo vệ an toàn trụ sở tiếp công dân của các cơ quan trên địa bàn mình quản lý; trong trường hợp cần thiết thì áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền để xử lý đối với những người lợi dụng việc khiếu nại, tố cáo có hành vi vi phạm pháp luật tại nơi tiếp công dân.
Bộ trưởng Bộ Công an chỉ đạo lực lượng công an có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan Nhà nước trong việc bảo vệ trật tự, an toàn cho các trụ sở tiếp công dân, xử lý đối với các đối tượng vi phạm pháp luật ở nơi tiếp công dân.
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
1. Soạn thảo để Chính phủ trình Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành các văn bản pháp luật về khiếu nại, tố cáo; trình Chính phủ ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo;
2. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về khiếu nại, tố cáo;
3. Ban hành theo thẩm quyền các văn bản hướng dẫn các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, cơ quan thanh tra Nhà nước các cấp, các ngành về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo;
4. Thanh tra, kiểm tra các cấp, các ngành trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo;
5. Thực hiện việc giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền;
6. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo;
7.Tổng hợp tình hình khiếu nại, tố cáo và việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; báo cáo Chính phủ theo định kỳ hoặc đột xuất;
8.Tổng kết kinh nghiệm về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
1. Định kỳ 3 tháng một lần, chậm nhất là ngày 15 của tháng cuối quý, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương báo cáo Thủ tướng Chính phủ (qua Tổng Thanh tra Nhà nước) về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc phạm vi quản lý của Bộ, ngành, địa phương mình.
2. Tổng Thanh tra Nhà nước tổng hợp tình hình giải quyết khiếu nại, tố cáo trong phạm vi quản lý của Chính phủ và báo cáo định kỳ tại các phiên họp thường kỳ của Chính phủ vào tháng đầu mỗi quý hoặc báo cáo đột xuất khi Thủ tướng Chính phủ có yêu cầu; định kỳ thông báo đến Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
3. Trong trường hợp cần thiết, Tổng Thanh tra Nhà nước đề nghị Thủ tướng Chính phủ triệu tập lãnh đạo các cơ quan ở trung ương, địa phương họp đề xuất các biện pháp để Thủ tướng Chính phủ xem xét, chỉ đạo xử lý đối với các vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều địa phương.
Điều 63. Thanh tra Nhà nước các cấp, các ngành có trách nhiệm:
1. Hướng dẫn cơ quan, tổ chức, đơn vị cùng cấp trong việc tiếp công dân, xử lý đơn khiếu nại, tố cáo, giải quyết khiếu nại, tố cáo, thi hành quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo;
2. Kiểm tra, thanh tra trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp dưới của Thủ trưởng cùng cấp trong việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; trong trường hợp cần thiết, đề nghị Thủ trưởng cùng cấp triệu tập Thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp dưới họp để đề xuất biện pháp tổ chức chỉ đạo, xử lý đối với các vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp;
3. Khi phát hiện có vi phạm pháp luật về khiếu nại, tố cáo thì xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý;
4. Kiến nghị các biện pháp nhằm chấn chỉnh công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc phạm vi quản lý của Thủ trưởng cùng cấp;
5. Tổng hợp tình hình khiếu nại, tố cáo và việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc trách nhiệm của Thủ trưởng cùng cấp; thực hiện chế độ báo cáo hàng tháng theo quy định của Tổng Thanh tra Nhà nước.
XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
1. Ra quyết định tạm đình chỉ thi hành quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo của Thủ trưởng cơ quan cấp dưới khi phát hiện việc giải quyết có vi phạm pháp luật;
2. Ra quyết định tạm đình chỉ công tác đối với công chức thuộc quyền quản lý cố tình cản trở hoặc không chấp hành quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo hoặc không chấp hành yêu cầu của các cơ quan Thanh tra Nhà nước, của cơ quan Nhà nước cấp trên trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; áp dụng các biện pháp xử lý khác đối với người có một trong các hành vi quy định tại các Điều 96, 97 và Điều 100 của Luật Khiếu nại, tố cáo.
1. Khiển trách;
2. Cảnh cáo;
3. Hạ bậc lương;
4. Hạ ngạch;
5. Cách chức;
6. Buộc thôi việc.
1. Thủ trưởng cơ quan Nhà nước nếu thiếu trách nhiệm, nhiều lần để xảy ra vi phạm pháp luật về khiếu nại, tố cáo trong cơ quan do mình quản lý thì bị xử lý kỷ luật; nếu gây hậu quả nghiêm trọng thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
2. Thủ trưởng cơ quan Nhà nước nếu thiếu trách nhiệm, không áp dụng các biện pháp cần thiết để thực hiện quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo thì bị xử lý kỷ luật; nếu gây hậu quả nghiêm trọng thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Người tiếp công dân, người giải quyết khiếu nại, tố cáo có quyền lập biên bản, yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính đối với người có hành vi vi phạm pháp luật khiếu nại, tố cáo. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân và cơ quan công an địa phương căn cứ vào biên bản và yêu cầu của người tiếp công dân, người giải quyết khiếu nại, tố cáo phải xử lý theo thẩm quyền và thông báo kết quả xử lý cho người có yêu cầu trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu.
Khiếu nại quyết định hành chính trong hoạt động quản lý, điều hành của cấp trên đối với cấp dưới theo thứ bậc hành chính không giải quyết theo quy định của Nghị định này.
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an căn cứ vào các quy định của Nghị định này sau khi thống nhất với Tổng Thanh tra Nhà nước hướng dẫn chi tiết việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quân đội và công an.
Điều 74. Nghị định này có hiệu lực sau 15 ngày kể từ ngày ký.
Nghị định 38/HĐBT ngày 28 tháng 1 năm 1992 của Hội đồng Bộ trưởng về việc thi hành Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991 hết hiệu lực thi hành.
Những quy định trước đây trái với Nghị định này đều bãi bỏ.
|
Phan Văn Khải (Đã ký) |
THE
GOVERNMENT |
SOCIALIST
REPUBLIC OF VIET NAM |
No:
67/1999/ND-CP |
Hanoi,
August 7, 1999 |
DETAILING AND GUIDING THE IMPLEMENTATION OF THE LAW ON
COMPLAINTS AND DENUNCIATIONS
THE GOVERNMENT
Pursuant to the Law on Organization of the
Government of September 30, 1992;
Pursuant to the Law on Complaints and Denunciations of December 2, 1998;
At the proposal of the State Inspector General,
DECREES:
COMPLAINTS, SETTLEMENT OF COMPLAINTS ABOUT ADMINISTRATIVE DECISIONS, ADMINISTRATIVE ACTS
Section 1. COMPLAINTS AND
HANDLING OF LETTERS OF COMPLAINT
...
...
...
1. The complainant must be the person whose
legitimate rights and interests are directly affected by an administrative
decision and/or an administrative act he/she complains about;
2. The complainant must be the person who has
full capacity for his/her own acts according to the provisions of the Civil
Code or who has yet the full capacity for his/her acts but is entitled to
complain according to the provisions of law; in cases where he/she make
complaint through his/her representative, the representative shall be subject
to the provisions of Article 2 of this Decree;
3. The complainant must write a letter of
complaint and file it to the right body competent to settle it within the
statute of limitations and/or time limits prescribed by the Law on Complaints
and Denunciations;
4. The complaint has yet come up with the final
settlement decision;
5. The complaint has yet been accepted and
processed for settlement by the court.
Persons who are unable to make complaints by
themselves due to their illness, old ages, physical handicaps or other
objective reasons may authorize their representatives being their fathers,
mothers, spouses, major offsprings or siblings to make the complaints; the
authorization must be made in writing with certification by the commune-level
People’s
Committee of the locality where the authorizer or the authorized resides.
2. Agencies exercise their right to complaints
through their representatives being the heads of such agencies.
...
...
...
Article 5.- Upon receipt
of letters of complaint, the State bodies shall handle them as follows:
1. For letters of complaint which fall under
their handling competence and satisfy conditions prescribed in Article 1 of
this Decree, the receiving agencies shall have to accept, process and settle
them; where a letter of complaint is signed by many persons, such agencies
shall have to guide the complainants to write separate letters of complaint;
2. For letters of complaint which fall under
their handling competence but fail to satisfy conditions for being accepted,
processed and settled according to the provisions in Article 1 of this Decree,
the receiving agencies shall have to reply the complainants in writing, clearly
stating the reasons therefor.
3. For letters of complaint, which contain both
the complaints and the denunciations, the agencies which receive them shall
handle the complaints according to the provisions at Point 1, Point 2 and Point
5 of this Article and the denunciation contents according to the provisions in
Article 43 of this Decree;
4. For letters of complaint which fall under the
handling competence of the subordinate authorities, but past the prescribed
time-limit they have not been settled yet, the immediate superior bodies
directly receiving them shall have to process and settle them;
5. For letters of complaint which do not fall
under their handling competence and letters of complaint about matters which
have been settled by the final decisions, the complaint-receiving bodies shall
not have to process them but shall give written notification and instruction to
the complainants. For one complained matter, only one notification is made;
where a complainant sent together with the letter of complaint the original
documents or papers relating to the complained matters and case, the
complaint-receiving body shall return such documents and papers to the
complainant.
...
...
...
Section 2. RESPONSIBILITIES
OF THE HEADS OF THE STATE ADMINISTRATIVE BODIES IN SETTLING COMPLAINTS
If realizing that the matters and cases
complained about are clearly presented with enough grounds for settlement, the
commune-level People’s
Committee presidents shall issue decisions to settle them immediately.
If realizing that the matters and cases
complained about are unclear and without adequate grounds for settlement, the
commune-level People’s
Committee presidents shall have to examine and verify them, meeting the
complainants, the complained as well as people with involved rights and
interests to make clear the matters complained about and the requests of the
complainants before issuing decisions to settle the complaints. Basing
themselves on the examination and verification results and the provisions of
law, the commune-level People’s Committee presidents shall issue
decisions to settle the complaints within the time-limits prescribed in the Law
on Complaints and Denunciations.
2. The commune-level People’s
Committee presidents shall have to send the complaint-settling decisions to the
complainants, the complained, the person with involved rights and interests as
well as the district-level People’s Committees; and make public the
complaint-settling decisions, when necessary.
3. The commune-level People’s
Committee presidents shall have to enforce and organize the enforcement of the
legally effective decisions on settlement of complaints within their respective
responsibilities.
...
...
...
a) With regard to complaints about their
administrative decisions and/or administrative acts, the district-level People’s
Committee presidents shall assign them to the heads of functional bodies under
the district-level People’s Committees or the district-level chief
inspectors to consider, make conclusions and propose the solution thereof;
b) With regard to complaints which have already
been settled by the commune-level People’s Committee presidents or heads of the
functional bureaus or bodies under the district-level People’s
Committees, but further lodged, they shall be assigned to the district-level
chief inspectors to make verification and conclusions thereon and propose
solution thereof;
c) Basing themselves on the verification reports,
conclusions and proposed solutions, the district-level People’s
Committee presidents shall issue decisions to settle or authorize the chief
inspectors of the same level to issue decisions to settle them according to the
provisions in Clause 1, Article 20, this Decree and within the time-limits
prescribed in the Law on Complaints and Denunciations.
2. The district-level People’s
Committee presidents or chief inspectors authorized to issue the settling
decisions shall have to send the complaint- settling decisions to the
complainants, the complained, the persons with involved rights and interests
and the provincial-level People’s Committees; and make public the
complaint-settling decisions, when necessary.
3. The district-level People’s
Committee presidents shall have to enforce and organize the enforcement of
legally effective decisions on settlement of complaints within the ambit of
their responsibilities; to inspect and urge the enforcement of the legally
effective complaint-settling decisions by their subordinate bodies and units.
a) With regard to complaints about the
administrative decisions and/or administrative acts of their own and/or of
officials and employees under their direct management, the provincial/municipal
Department directors shall assign them to the heads of functional bureaus and
bodies under the Departments or the Department chief inspectors to consider,
make conclusions and propose solution thereof;
b) With regard to the complaints which have been
settled by the heads of bodies under the Department but further lodged, they
shall be assigned to the Department chief inspector to make verification and
conclusions thereon, and propose solutions thereof;
...
...
...
2. The provincial/municipal Department directors
shall have to send the complaint-settling decisions to the complainants, the
complained, the persons with involved rights and interests and the persons
competent to continue the settlement; and, when necessary, make public the
complaint-settling decisions.
3. The provincial/municipal Department directors
shall have to enforce and organize the enforcement of legally effective
decisions on settlement of complaints; to inspect and urge the enforcement of
the legally effective complaint-settling decisions by their subordinate bodies
and units.
a) With regard to complaints about their own
administrative decisions and/or acts, the provincial-level People’s
Committee presidents shall assign them to the heads of the specialized agencies
under the provincial-level People’s Committees or chief inspectors to
consider, make conclusions and propose solutions thereof;
b) With regard to the complaints which have
already settled by the district-level People’s Committee presidents or by the
provincial-level Department directors but further lodged and which fall under
their jurisdiction, the provincial-level People’s Committee presidents shall assign them
to the provincial-level chief inspectors to make verifications and conclusions
thereon and propose the solution thereof;
c) Basing themselves on the verification
reports, conclusions and proposed solutions, the provincial-level People’s
Committee presidents shall issue decisions or authorize the provincial-level
chief inspectors to issue decisions to settle them according to the provisions
in Clause 2, Article 20, this Decree, and within the time-limits prescribed in
the Law on Complaints and Denunciations. The decisions on the settlement of
complaints mentioned at Point a, Clause 1, this Article, shall be the first
decisions on the settlement of complaints; the decisions on the settlement of
complaints mentioned at Point b, Clause 1, this Article, shall be the final
decisions on the settlement of such complaints.
2. The provincial-level People’s
Committee presidents or chief inspectors authorized to issue settling decisions
shall have to send the complaint-settling decisions to the complainants, the
complained, the persons with involved rights and interests; if they are the
final decisions they shall also be sent to the State Inspector General; if they
are the first decisions on complaint settlement, they shall be addressed to the
ministers, the heads of the ministerial-level agencies or the heads of the
agencies attached to the Government, who are competent to continue the
settlement of such complaints; and, when necessary, make public the
complaint-settling decisions.
3. The provincial-level People’s
Committee presidents shall have to enforce and organize the enforcement of
legally effective complaint-settling decisions within the ambit of their
responsibility; to inspect and urge the enforcement thereof by their
subordinate agencies and units.
...
...
...
a) With regard to complaints about
administrative decisions and/or acts of their own, their officials and
employees, the ministers, the heads of the ministerial-level agencies and the
heads of the agencies attached to the Government shall assign them to the heads
of Departments or functional agencies or the chief inspectors of the same level
to consider, make conclusions and propose solution thereof;
b) With regard to complaints which have already
been settled by heads of the agencies under the ministries, the ministerial-level
agencies or the agencies attached to the Government, district-level People’s
Committee presidents or provincial/municipal Department directors, but still
further lodged, and which fall under their settling jurisdiction, they shall be
assigned to the chief inspectors of the same level to make verification and
conclusions thereon and propose the solution thereof;
c) Basing themselves on the verification
reports, conclusions and proposed solutions, the concerned ministers, heads of
the ministerial-level agencies or heads of the agencies attached to the
Government shall issue decisions to settle the complaints within the
time-limits prescribed in the Law on Complaints and Denunciations. The
decisions settling complaints mentioned at Point a, Clause 1, this Article,
shall be the first decisions; the decisions settling complaints mentioned at
Point b, Clause 1, this Article, of the ministers or heads of the
ministerial-level agencies shall be the final ones.
2. The ministers, the heads of the
ministerial-level agencies and the heads of the agencies attached to the
Government shall have to send the complaint-settling decisions to the
complainants, the complained, the persons with involved rights and interests
and the State Inspector General; and, when necessary, make public the
complaint-settling decisions.
3. The ministers, the heads of the
ministerial-level agencies and the heads of the agencies attached to the
Government shall have to enforce and organize the enforcement of the legally
effective complaint-settling decisions within the ambit of their
responsibilities; to inspect and urge the enforcement thereof by agencies and
units under their respective management.
2. The State Inspector General may be authorized
to settle complaints falling under the Prime Minister’s settling jurisdiction; in case of
divergence of opinions between the State Inspector General and ministers or
heads of the ministerial-level agencies on the settlement, the State Inspector
General shall report such to the Prime Minister for directing the settlement or
propose the Prime Minister to issue the settling decisions.
...
...
...
2. The ministers, the heads of the
ministerial-level agencies and the heads of the agencies attached to the
Government, in the course of performing their State management functions, if
detecting that the provincial-level People’s Committee presidents’
final decisions violated laws, thus causing damage to the State’s
interests and/or the legitimate rights and interests of citizens, agencies
and/or organizations, shall request the persons who have made such decisions to
reconsider them; within 15 days, if such request is not met, they may apply
measures according to their respective competence to have such request met or
report it to the Prime Minister for consideration and decision.
3. The State Inspector General, in the course of
inspecting and checking the observance of the legislation on complaints and
denunciations, if detecting that the final decisions on settlement of
complaints have violated laws causing damage to the State’s
interests and/or the legitimate rights and interests of citizens, agencies
and/or organizations, shall request the persons who have made such decisions to
reconsider them; within 15 days, if the request is not met, he/she may apply
measures according to his/her competence to have such request satisfied or
propose them to the Prime Minister for consideration and decision.
4. The statute of limitations for making a
request to review a final decision on complaint settlement as prescribed in
Clauses 2 and 3 of this Article shall be 12 months after such decision takes
effect.
Upon detecting that a final complaint-settling
decision breached laws, causing damage to the State’s interests and/or the legitimate rights
and interests of citizens, agencies and/or organizations, the Prime Minister
shall direct the person who issued such settling decision or assign the State
Inspector General, the concerned minister, head of the ministerial-level agency
or agency attached to the Government to reconsider it and report thereon to the
Prime Minister for decision.
2. The heads of the State bodies, when receiving
complaints which fall under the settling jurisdiction of the immediate
subordinate agencies and have been left unsettled beyond the prescribed
time-limits, shall have to accept and process them for settlement and at the
same to apply measures to deal with according to their respective competence or
propose the competent bodies to deal with persons who have shown
irresponsibility in or deliberately delayed the settlement of such complaints.
...
...
...
2. When publicly announcing the
complaint-settling decisions, the complaint settlers shall make known the
contents of the complaints, the inspection and verification results, the legal
bases for settlement of such complaints, the settlement of specific matters in
the complaints; clearly point to the responsibilities of the complainants, the
complained as well as the persons with involved rights and interests in abiding
by the complaint- settling decisions.
Section 3. THE COMPLAINT
SETTLEMENT AUTHORIZATION
2. The provincial-level People’s
Committee presidents shall issue decisions or authorize the provincial-level
chief inspectors to issue decisions on settlement of complaints which have
already been settled by district-level People’s Committee presidents but petitioned,
except for cases of complicated, unsettled and prolonged complaints.
3. The authorization to issue decisions on
settlement of complaints as prescribed in Clauses 1 and 2 of this Article must
be made in writing. The authorization documents shall be kept in the dossiers
on complaint settlement.
...
...
...
2. The authorized shall perform the tasks and
exercise the rights of the person who settle the complaints in subsequent times
as prescribed in Articles 42 and 44 of the Law on Complaints and Denunciations
and take responsibility before law and the authorizer for their settlement of
complaints.
3. The authorized’s decisions on settlement of complaints
shall be stamped with the seal of his/her agency and have the legal effect like
the authorizer’s
decisions on settlement of complaints. The complaint-settling decisions of the
State Inspector General or the provincial-level chief inspectors shall be the
final decisions.
Section 4. THE ENFORCEMENT OF
COMPLAINT-SETTLING DECISIONS
1. Issue administrative decisions to replace or
amend the complained administrative decisions and organize the enforcement of
such decisions, terminate the complained administrative acts if the content of
the complaint is true; compensate for damage caused, restore the victims’
legitimate rights and interests according to the provisions of law;
2. Explain to and request the complainants to
strictly implement the complaint-settling decisions if the complaint contents
are untrue; in case of necessity request the functional bodies to apply
measures according to their competence to ensure the strict enforcement of the
legally effective decisions on settlement of complaints.
...
...
...
Section 1. COMPETENCE TO
SETTLE COMPLAINTS ABOUT DISCIPLINARY DECISIONS
2. The provincial-level People’s
Committee presidents are competent to:
a) Settle complaints about the disciplinary
decisions they have signed;
b) Settle complaints about the disciplinary
decisions, which have been settled for the first time by the district-level
People’s
Committee presidents or provincial/municipal Department directors but further
petitioned. The decisions to settle the complaints this time shall be the final
ones.
...
...
...
1. Settle complaints about the disciplinary
decisions they have signed;
2. Settle complaints about the disciplinary
decisions, which have already been settled for the first time by the heads of
agencies under ministries, ministerial-level agencies or agencies attached to
the Government but still further lodged. These complaint-settling decisions
shall be the final ones.
1. Settle complaints about the disciplinary
decisions he/she has signed;
2. Settle complaints about disciplinary
decisions, which have already been settled for the first time by the
provincial-level People’s
Committee presidents but still further lodged, except for complaints already
settled by decisions of heads of the agencies attached to the Government, who
are ministers. These complaint-settling decisions shall be the final ones.
Section 2. PROCEDURES FOR
SETTLING COMPLAINTS ABOUT DISCIPLINARY DECISIONS
...
...
...
DENUNCIATIONS AND SETTLEMENT THEREOF
Section 1. COMPETENCE TO
SETTLE DENUNCIATIONS
Denunciations of violations of the regulations
on tasks and public duties by any persons shall be settled by the agencies in
charge of such persons.
Denunciations of violations of the regulations
on tasks and public duties by the heads or deputy-heads of any agencies shall
be settled by the heads of the immediate superior bodies of such agencies.
...
...
...
2. The district-level People’s
Committee presidents are competent to settle denunciations of law offenses
committed by presidents and/or vice-presidents of the commune-level People’s
Committees, by heads and/or deputy-heads of bureaus and/or sections under the
district-level People’s
Committees or by other persons they have appointed and managed directly.
3. The provincial/municipal Department directors
are competent to settle denunciations of acts of law offenses by heads and/or
deputy-heads of sections under the Departments and other persons they have
appointed and managed directly.
4. The provincial-level People’s
Committee presidents are competent to settle denunciations of law offenses by
presidents and/or vice presidents of the district-level People’s
Committees, directors and/or deputy directors of the provincial/municipal
Departments and/or other persons they have appointed and managed directly.
5. The ministers, the heads of the ministerial-level
agencies and heads of the agencies attached to the Government are competent to
settle denunciations of law offenses by heads and/or deputy-heads of agencies
and units under the ministries, the ministerial-level agencies and the agencies
attached to the Government, and other persons they have appointed and managed
directly.
6. The Prime Minister is competent to settle
denunciations of law offenses by ministers, vice-ministers, heads and/or deputy
heads of the ministerial-level agencies and the agencies attached to the
Government, presidents and/or vice-presidents of the provincial-level People’s
Committees and other persons he/she has appointed and managed directly.
1. The district-level
chief inspector is competent:
...
...
...
b) To consider and conclude on the denunciation
contents which have already been settled by the commune-level People’s
Committee presidents but in contravention of law; in case of a law violation in
the settlement, as concluded, to propose the persons who have settled the case
to reconsider and resettle them.
2. The provincial/municipal Department chief
inspector is competent:
a) To verify and conclude on the denunciation
contents and propose measures for handling denunciations falling under the
settling competence of the provincial/municipal Department directors, when so
assigned;
b) To consider and conclude on denunciation
contents which have already been settled by heads of agencies under the
provincial/municipal Departments but in contravention of law; in case of a law
violation in the settlement, as concluded, to propose the persons who have
settled the case to reconsider and resettle them.
3. The provincial-level chief inspector is
competent:
a) To verify and conclude on the contents of
denunciation, propose measures to handle denunciations under the settling
jurisdiction of the provincial-level People’s Committee president, when so assigned;
b) To consider and conclude on the contents of
denunciations, which have already been settled by district-level People’s
Committee presidents or by provincial/municipal Department directors, but in
contravention of law; in case of law violations in the settlement as concluded,
to propose the persons who have settled the case to reconsider and re-settle
them.
4. Chief inspectors of the ministries, the
ministerial-level agencies and the agencies attached to the Government are
competent:
a) To consider and conclude on the contents of
denunciations, propose measures to handle denunciations falling under the
settling jurisdiction of the ministers, the heads of the ministerial-level
agencies or the heads of the agencies attached to the Government;
...
...
...
Article 41.- The State
Inspector General is competent:
1. To verify and conclude on the contents of
denunciations, propose measures to handle denunciations falling under the
settling jurisdiction of the Prime Minister, when so assigned.
2. To consider and conclude on the contents of
denunciations, which have already been settled by ministers, heads of the
ministerial-level agencies, heads of the agencies attached to the Government or
presidents of the provincial-level People’s Committees, but in contravention of law;
in case of a law violation in the settlement, as concluded, to propose the
persons who have settled the cases to review and re-settle them.
Section 2. PROCEDURES TO
SETTLE DENUNCIATIONS
a) If the denunciations fall under its settling
jurisdiction, it shall have to accept, process and settle them in strict
accordance with the order and procedures prescribed in the Law on Complaints
and Denunciations and this Decree;
b) If the denunciations do not fall under its
jurisdiction, within 10 days from the date of receiving them, it shall have to
transfer the written denunciations or the recorded oral denunciations as well
as relevant documents and vouchers (if any) to the persons competent to settle
them.
...
...
...
d/ The denunciation of a criminal act shall be
handed to the investigation agency or the procuracy for handling according to
Article 71 of the Law on Complaints and Denunciations.
2. Where a denounced act causes or threatens to
cause serious damage to the interests of the State and/or collectives or to the
lives and property of citizens, the bodies which have received the
denunciations shall have to immediately report to the functional agencies for
preventive measures.
3. Where heads of the State bodies at different
levels or branches receive information that the denunciators have been
threatened, maltreated for retaliation or revenged, they shall have to direct
or coordinate with the concerned functional agencies in the verification of the
information and take measures to protect the denouncers and prevent such acts
and request the competent authorities to handle according to law those who have
committed such acts of threatening, maltreatment or revenge against the
denouncers.
Upon the completion of the verification, the
person assigned the task of verification shall have to make a written
conclusion on the denunciation content, with evidences to support his/her
conclusion.
...
...
...
1. Where the denounced did not breach the law
and/or the regulations on tasks and public duties, there must be clear
conclusions thereon and a written notice shall be addressed to the denounced as
well as their managing agencies, and at the same time handle or propose the
competent State bodies to handle the persons who have deliberately made
untruthful denunciations;
2. Where the denounced have breached the law
and/or regulations on tasks and public duties, being subject to disciplines
and/or administrative sanction, the persons competent to settle denunciations
shall handle them according to their competence or request the competent State
bodies to handle them, and at the same time apply measures prescribed by law to
ensure that the handling decisions and proposals are strictly implemented.
3. Where the denounced acts show signs of
criminal offenses, the dossiers thereon shall be forwarded to the investigation
bodies or the procuracies for settlement according to criminal procedures
legislation.
ORGANIZING THE RECEPTION OF CITIZENS
The heads of the State bodies shall have to
organize and manage the citizen-receiving places in their offices, to issue
internal regulations on citizen reception, to arrange citizen-receiving places
at convenient locations, and to ensure necessary material conditions for
citizens to present their complaints and/or denunciations, to propose and
report matters related to complaints and denunciations.
At the citizen-receiving places, the reception
time-tables and rules must be posted up. The citizen-receiving time-table must
clearly state the time and the titles of the persons who receive citizens. The
citizen reception rules must clearly inscribe the responsibilities of the
persons who receive citizens as well as the rights and obligations of the
persons who come to make complaints and/or denunciations.
...
...
...
2. In addition to the periodical reception of
citizens, the heads of the State bodies shall also have to receive them at
their urgent request.
3. With regard to complaints under their
jurisdiction, of which the contents are clear and specific with enough grounds
to settle, the heads of the State bodies, when receiving citizens, shall reply
them immediately; if the matters are complicated, requiring further study and
consideration, they must clearly state the time-limit for settling them and the
persons to contact later for settlement results.
4. The reception of citizens by the heads of the
State bodies must be recorded in the citizen-receiving books and kept at the
citizen-receiving places.
1. For written complaints, they shall be handled
according to Article 5 of this Decree; where citizens come to make verbal
complaints which fall under their agencies’ settling jurisdiction, the persons
receiving the citizens shall guide them to write out their complaints or
tape-record the complaint contents and request such citizens to sign their
names or press their finger-prints thereon; if the matters complained about do
not fall under the jurisdiction of their agencies, they shall have to guide the
complainants to go to the right agencies which are competent to settle their
complaints;
2. For denunciations, the persons receiving
citizens shall have to accept, classify and handle them according to the
provisions in Articles 43,44 and 45 of this Decree.
...
...
...
2. The provincial-level People’s
Committee president shall arrange a common place for the People’s
Council, the People’s
Committee, the delegation of National Assembly deputies and representatives of
political organizations to receive citizens who come to make their complaints
and/or denunciations; and appoint an official of the deputy-director of the
Office or equivalent level to take charge of the citizen-receiving place in
order to organize the implementation of the regular citizen reception regime.
The commune-level People’s Committee and the police offices in
localities shall have to ensure safety of the citizen-receiving offices of the
agencies in their respective localities; and shall, in case of necessity, apply
measures according to their competence to handle persons who take advantage of
complaining and denunciation to commit acts of law violation at the
citizen-receiving places.
The Minister of Public Security shall direct the
police forces to coordinate with the State agencies in ensuring order and
safety for citizen-receiving offices and handling persons who break the law at
the citizen-receiving places.
STATE MANAGEMENT OVER THE WORK OF COMPLAINT AND DENUNCIATION SETTLEMENT
...
...
...
1. Drafting legal documents on complaints and
denunciations for the Government to submit to the National Assembly and the
National Assembly Standing Committee for promulgation; submitting to the
Government for promulgating documents guiding the implementation of the
legislation on complaints and denunciations;
2. Propagating for and popularizing the
legislation on complaints and denunciations;
3. Promulgating according competence documents
guiding the ministries, the ministerial-level agencies, the agencies attached
to the Government, the People’s Committee of the provinces and
centrally-run cities, the State inspectorates at all levels and branches in the
work of complaint and denunciation settlement;
4. Inspecting and controlling all levels and
branches in the observance of law provisions on complaints and denunciations;
5. Conducting the complaint and denunciation
settlement according to competence;
6. Training and fostering State officials in the
work of citizen reception as well as the complaint and denunciation settlement;
7. Summing up the situation on complaints and
denunciations and the settlement thereof; regularly or irregularly reporting
such to the Government;
8. Reviewing the work of complaint and
denunciation settlement in order to draw experience therefrom.
...
...
...
2. The State Inspector General shall sum up the
situation on complaint and denunciation settlement within the scope of the
Government’s
management and periodically report thereon at the regular meetings of the
Government in the first month of every quarter or irregularly at the Prime
Minister’s
request; and periodically inform the Vietnam Fatherland Front Central Committee
of the work of complaint and denunciation settlement.
3. In case of necessity, the State Inspector
General shall propose the Prime Minister to convene meetings of leading
officials of the central and local agencies to propose to the Prime Minister
for consideration and direction measures to handle complicated cases of
complaint and denunciation involving many branches, many localities.
Article 63.- The State
inspectorate of all levels and all branches shall have to:
1. Guide the agencies, organizations and units
of the same level in citizen reception, handling of written complaints and
denunciations, settlement of complaints and denunciations, execution of
decisions on settlement of complaints and decisions on handling of denunciations;
2. Supervise and inspect the responsibility of
the heads of the subordinate agencies, organizations and units as well as of
the heads of the same level in citizen reception, settlement of complaints and
denunciations; in case of necessity, propose the heads of the same level to
convene meetings of the heads of subordinate agencies, organizations and units
to propose measures to organize the direction and handling of complicated
complaints and denunciations.
3. Upon detection of any violation of the legislation
on complaints and denunciations, handle them according to competence or request
competent bodies to handle them.
4. Propose measures to improve the work of
complaint and denunciation settlement under the scope of management of the
heads of the same level;
...
...
...
HANDLING OF VIOLATIONS OF THE LEGISLATION ON COMPLAINTS AND DENUNCIATIONS
1. Issue decisions to suspend the execution of
the decisions on settlement of complaints and/or decisions on handling of
denunciations of the heads of the subordinate agencies when detecting that the
settlement thereof has violated law;
2. Issue decisions to suspend the work of officials
under their management, who have deliberately obstructed or refrained from the
execution of the decisions on settlement of complaints, decisions on handling
of denunications or refrained from meeting requests of the State inspectorate
and/or the superior State agencies in the settlement of complaints and
denunciations; apply other measures to persons who commit one of the acts
prescribed in Articles 96,97 and 100 of the Law on Complaints and Denunciations.
1. Reprimand;
2. Warning;
...
...
...
4. Demotion;
5. Dismissal from office;
6. Dismissal from job.
2. Those heads of the State agencies who, due to
their lack of responsibility, fail to apply necessary measures to enforce
decisions on settlement of complaints and/or decisions on handling of
denunications, shall be disciplined; if causing serious consequences, they
shall be examined for penal liability.
Persons who receive citizens and persons who
settle complaints and/or denunciations may make records and request competent
bodies to administratively sanction those who commit acts of violating the
legislation on complaints and denunciations. The presidents of the local People’s
Committees and the local police offices shall base themselves on such records
and request the persons who receive citizens or the persons who settle
complaints and/or denunciations to handle such cases according to competence
and notify the handling results to the requestors within 15 days from the date
of receiving the request.
...
...
...
The complaints about administrative decisions in
the activities of management by the superior over the subordinate according to
the administrative rankings shall not be settled according to this Decree.
The Minister of Defense and the Minister of
Public Security shall base themselves on the provisions of this Decree to
provide detailed guidance on the settlement of complaints and denunciations
within the army and the police after consulting with the State Inspector
General.
Article 74.- This Decree
takes effect 15 days after its signing.
Decree No. 38/HDBT of January 28, 1992 of the
Council of Ministers on the implementation of the 1991 Ordinance on Citizens’
Complaints and Denunciations ceases to be effective.
...
...
...
ON BEHALF OF THE GOVERNMENT
PRIME MINISTER
Phan Van Khai
;
Nghị định 67/1999/NĐ-CP hướng dẫn Luật Khiếu nại, tố cáo
Số hiệu: | 67/1999/NĐ-CP |
---|---|
Loại văn bản: | Nghị định |
Nơi ban hành: | Chính phủ |
Người ký: | Phan Văn Khải |
Ngày ban hành: | 07/08/1999 |
Ngày hiệu lực: | Đã biết |
Tình trạng: | Đã biết |
Văn bản đang xem
Nghị định 67/1999/NĐ-CP hướng dẫn Luật Khiếu nại, tố cáo
Chưa có Video