BỘ
LAO ĐỘNG - THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI |
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 69/BC-LĐTBXH |
Hà Nội, ngày 08 tháng 9 năm 2011 |
CÔNG TÁC CAI NGHIỆN MA TÚY TẠI VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
Theo số liệu báo cáo của các địa phương, tính tới cuối tháng 6 năm 2011 cả nước có 149.900 người nghiện ma túy. So với cuối năm 1994, số người nghiện ma túy đã tăng khoảng 2,7 lần với mức tăng xấp xỉ 6.000 người nghiện mỗi năm. Người nghiện ma túy đã có 63/63 tỉnh, thành phố, khoảng 90% quận, huyện, thị xã và gần 60% xã, phường, thị trấn trên cả nước.
Cơ cấu người nghiện ma túy theo vùng miền cũng đã có những thay đổi đáng kể. Nếu như giữa những năm 90 của thế kỷ trước, nghiện ma túy chủ yếu phổ biến ở người dân tại các tỉnh miền núi phía Bắc thì từ giữa những năm 2000 đã tăng mạnh xuống vùng đồng bằng sông Hồng và khu vực miền Đông Nam bộ. Năm 1994 có tới hơn 61% người nghiện ma túy ở Việt Nam thuộc khu vực các tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc thì tới năm 2009 tỷ lệ này là gần 30%. Ngược lại, tỷ lệ người nghiện ma túy thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng trong tổng số người nghiện ma túy của cả nước đã tăng từ 18,2% lên 31% trong cùng kỳ. Tương tự, tỷ lệ người nghiện ma túy thuộc các tỉnh miền Đông Nam bộ đã tăng từ 10,2% lên 23%.
Độ tuổi của người nghiện ma túy cũng có xu hướng trẻ hóa. Cuối năm 2010, gần 70% người nghiện ma túy ở độ tuổi dưới 30 trong khi năm 1995 tỷ lệ này chỉ khoảng 42%. Hơn 95% người nghiện ma túy ở Việt Nam là nam giới. Tuy nhiên, tỷ lệ người nghiện là nữ giới cũng đang có xu hướng tăng trong những năm qua.
Theo số liệu khảo sát của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tại thời điểm cuối năm 2009, đa số người nghiện ma túy có trình độ văn hóa thấp, khoảng 10% không biết chữ, 59% có trình độ văn hóa từ tiểu học tới trung học cơ sở. Có khoảng 2/3 số người nghiện chưa từng được đào tạo nghề; gần 20% đã được học nghề nhưng không được cấp bằng, chứng chỉ; khoảng 12% được đào tạo nghề một cách chính quy, được cấp bằng, chứng chỉ tốt nghiệp. Đa số người nghiện ma túy không có nghề nghiệp ổn định, chi tiêu chủ yếu từ nguồn hỗ trợ của gia đình, thu nhập hợp pháp chỉ bằng 1/3 số tiền chi cho ma túy.
Loại ma túy được sử dụng và hình thức sử dụng ma túy cũng có nhiều thay đổi phức tạp. Thay cho vai trò của thuốc phiện trong hơn 10 năm trước đây, heroin hiện là loại ma túy được sử dụng chủ yếu ở Việt Nam, có tới 96,5% người nghiện thường xuyên sử dụng heroin trước khi tham gia cai nghiên. Mặc dù tỷ lệ người nghiện thuốc phiện và các chất kích thích dạng Amphetamine (ATS hay ma túy tổng hợp) tương đương nhau, khoảng 1,2% - 1,4% nhưng theo đánh giá của Cơ quan phòng chống tội phạm và ma túy của Liên hợp quốc (UNODC), việc lạm dụng ATS, đặc biệt là Methamphetamine, đang có xu hướng gia tăng trong người nghiện ma túy tại Việt Nam, nhất là khi Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam Á là khu vực chiếm ½ số người lạm dụng loại ma túy này trên toàn thế giới. Việc gia tăng lạm dụng các loại ma túy tổng hợp khiến cho công tác phòng ngừa và cai nghiện phục hồi cho nhóm người nghiện ma túy gặp rất nhiều khó khăn.
Cách thức sử dụng ma túy cũng có nhiều thay đổi. Nếu như năm 1995 chỉ có chưa đến 8% số người nghiện tiêm chích ma túy và hơn 88% chủ yếu hút, hít thì tới cuối năm 2009 số người chích ma túy chiếm hơn ¾ tổng số người nghiện ma túy của cả nước. Hình thức sử dụng ma túy chủ yếu là tiêm chích với việc dùng chung bơm kim tiêm đã dẫn tới tỷ lệ lây nhiễm HIV cao trong nhóm người nghiện chích ma túy (17,2%). Theo số liệu từ Bộ Y tế, người nghiện chích ma túy cũng là nhóm đối tượng chiếm tỷ lệ cao nhất trong số những người nhiễm HIV ở Việt Nam (41,1% tính đến cuối tháng 6/2011).
Bên cạnh những hậu quả liên quan tới HIV/AIDS, xấp xỉ 50% số người nghiện được khảo sát năm 2009 cho biết họ đã gặp những vấn đề về sức khỏe tâm thần như lo lắng, trầm cảm, mất ngủ, ảo giác, căng thẳng thần kinh trong 12 tháng trước khi tham gia cai nghiện, trong đó 11,4% thường xuyên hoặc luôn luôn gặp những vấn đề như vậy. Một tỷ lệ tương tự người nghiện ma túy thường gặp các vấn đề về sức khỏe thể chất.
Bên cạnh những hệ lụy về tài chính và sức khỏe do sử dụng ma túy, hơn 1/3 số người nghiện ma túy tham gia cuộc khảo sát trên còn cho biết đã gặp những khó khăn, mâu thuẫn trong quan hệ với người thân trong gia đình.
Ngoài ra, nghiện ma túy là nguồn gốc, nguyên nhân tiềm tàng phát sinh nhiều loại tội phạm xâm phạm trật tự xã hội như giết người, cướp của, trộm cắp, cố ý gây thương tích, bạo lực gia đình… Số liệu khảo sát của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho thấy, có gần 38% số học viên được tiếp nhận và hỗ trợ cai nghiện tại các Trung tâm đã có tiền án hoặc tiền sự. Theo số liệu từ Bộ Công an, khoảng 11% trong tổng số 143.196 người nghiện có hồ sơ quản lý của cả nước cuối năm 2010 đang được quản lý tại các Trại giam, Cơ sở Giáo dưỡng, Trường giáo dưỡng do ngành Công an quản lý do có các hành vi vi phạm pháp luật hình sự.
Như vậy, có thể thấy tình hình lạm dụng ma túy ở Việt Nam vẫn đang diễn biến phức tạp và có xu hướng gia tăng cùng với việc xuất hiện nhiều loại ma túy mới, hình thức sử dụng ma túy không an toàn làm tăng nguy cơ lây nhiễm HIV. Đa số người nghiện ma túy có trình độ văn hóa thấp, chưa được đào tạo nghề và không có việc làm ổn định, thường gặp các vấn đề về sức khỏe, kinh tế khó khăn, nhiều người không được sự hỗ trợ của người thân, gia đình. Do vậy, việc tổ chức cai nghiện cho người nghiện ma túy là cần thiết nhằm giúp họ từ bỏ sự phụ thuộc vào chất gây nghiện, đồng thời trang bị, phục hồi cho họ các kỹ năng sống và kỹ năng lao động để đảm bảo thực hiện đầy đủ các vai trò của mình trong gia đình và xã hội.
II. CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT CỦA VIỆT NAM VỀ CÔNG TÁC CAI NGHIỆN
Trong những năm qua, Việt Nam đã từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về công tác cai nghiện phục hồi, thể hiện qua các văn bản chính như sau:
1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là cơ sở pháp lý cao nhất của việc tổ chức cai nghiện cho người nghiện ma túy ở Việt Nam. Điều 61 Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền được hưởng chế độ bảo vệ sức khỏe… Nhà nước quy định chế độ bắt buộc cai nghiện và chữa bệnh xã hội nguy hiểm...”
2. Luật Phòng chống ma túy được Quốc hội ban hành ngày 19/12/2000 và sửa đổi bổ sung năm 2008 đã cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về cai nghiện. Điều 25 Luật Phòng chống ma túy nêu rõ: “áp dụng chế độ cai nghiện đối với người nghiện, khuyến khích người nghiện ma túy tự nguyện cai nghiện; tổ chức các cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc; khuyến khích cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức thực hiện việc cai nghiện tự nguyện cho người nghiện ma túy, hỗ trợ hoạt động cai nghiện ma túy, quản lý sau cai nghiện và phòng chống tái nghiện ma túy; nghiên cứu, sản xuất, ứng dụng thuốc và phương pháp cai nghiện ma túy”. Người nghiện ma túy có thể đăng ký tự nguyện cai nghiện tại gia đình, cộng đồng hay tại các cơ sở cai nghiện (Điều 27).
Bên cạnh việc khuyến khích người nghiện ma túy đăng ký cai nghiện tự nguyện, Luật Phòng chống ma túy đã quy định biện pháp cai nghiện bắt buộc tại cộng đồng hoặc tại cơ sở cai nghiện đối với người nghiện ma túy không tự nguyện cai nghiện. Việc cai nghiện bắt buộc tại cộng đồng được thực hiện theo quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (gọi tắt là UBND cấp xã) với người mới nghiện nhưng không tự nguyện cai nghiện (Điều 27).
Biện pháp cai nghiện bắt buộc tại cơ sở cai nghiện được áp dụng đối với "Người nghiện ma tuý từ đủ 18 tuổi trở lên đã được cai nghiện ma tuý tại gia đình, cộng đồng hoặc đã được giáo dục nhiều lần tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc người nghiện không có nơi cư trú nhất định phải được đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc… Thời hạn cai nghiện ma túy tại cơ sở cai nghiện bắt buộc từ một năm đến hai năm" (Điều 28). Đối với người nghiện ma tuý từ đủ 12 đến dưới 18 tuổi đã được cai nghiện tại gia đình cộng đồng hoặc đã được giáo dục nhiều lần tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc không có nơi cư trú nhất định thì được đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc dành riêng cho họ và điều này không coi là việc xử lý vi phạm hành chính (Điều 29).
3. Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, hành vi sử dụng ma tuý trái phép không phải là tội phạm mà là hành vi vi phạm pháp luật về mặt hành chính và được xử lý theo quy định của pháp luật hành chính. Việc áp dụng biện pháp đưa vào Cơ sở chữa bệnh, đưa đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động xã hội (gọi tắt là cơ sở cai nghiện) đối với người nghiện ma túy được tiến hành bằng các thủ tục hành chính được quy định trong Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành năm 1995, sửa đổi bổ sung năm 2002, 2007, 2008 và các văn bản hướng dẫn thực hiện.
Thẩm quyền ra quyết định đưa người nghiện đi cai bắt buộc tại Trung tâm thuộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi tắt là UBND cấp huyện). Quyết định đưa đi cai nghiện bắt buộc của Chủ tịch UBND cấp huyện mang tính khách quan, chính xác và được thực hiện bằng một thủ tục hành chính nghiêm ngặt, được giám sát chặt chẽ.
4. Các Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết về công tác cai nghiện như Nghị định số 94/2009/NĐ-CP ngày 26/10/2009 quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng, chống ma túy về quản lý sau cai nghiện ma túy tại nơi cư trú và trung tâm quản lý sau cai; Nghị định số 94/2010/NĐ- CP ngày 9/9/2010 quy định về tổ chức cai nghiện ma túy tại gia đình và cộng đồng; Nghị định số 61/2011/NĐ-CP ngày 26 tháng 7 năm 2011 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 135/2004/NĐ-CP ngày 10/6/2004 của Chính phủ quy định về chế độ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh, tổ chức hoạt động của cơ sở chữa bệnh theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và chế độ áp dụng đối với người chưa thành niên, người tự nguyện vào cơ sở chữa bệnh.
Căn cứ các Nghị định trên, các Bộ, ngành chức năng đã ban hành các văn bản hướng dẫn theo thẩm quyền. Các nội dung cơ bản về cai nghiện được quy định và hướng dẫn bao gồm:
4.1.Khai báo tình trạng nghiện ma túy: người nghiện ma túy phải tự khai báo về tình trạng nghiện ma túy của bản thân và đăng ký hình thức cai nghiện với chính quyền cơ sở.
4.2. Xác định tình trạng nghiện: Sự lệ thuộc vào các chất gây nghiện dạng thuốc phiện thực hiện theo quy định tại Quyết định số 5075/QĐ-BYT ngày 12/12/2007 của Bộ trưởng Bộ Y tế về hướng dẫn tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện ma tuý gốc opiat, theo đó, việc tiếp nhận người vào cai nghiện phải có đủ tiêu chuẩn chẩn đoán trạng thái nghiện và hội chứng cai.
4.3. Cai nghiện tại gia đình, cộng đồng: Cơ quan chịu trách nhiệm triển khai các hoạt động cai nghiện tại gia đình là UBND cấp xã. Giúp việc cho UBND cấp xã là Tổ công tác cai nghiện ma túy với thành viên gồm đại diện lãnh đạo UBND, cán bộ y tế, công an, cán sự xã hội và một số ban ngành, đoàn thể liên quan cấp xã. Cán bộ y tế xã kết hợp với gia đình người nghiện hay người giám hộ lập hồ sơ bệnh án, lập kế hoạch điều trị cắt cơn, giải độc theo hướng dẫn của Bộ Y tế; kết hợp điều trị cắt cơn giải độc với tư vấn tâm lý và các biện pháp trị liệu khác. Tổ công tác cai nghiện phân công người thường xuyên hướng dẫn gia đình theo dõi, quản lý, chăm sóc người nghiện. UBND xã có trách nhiệm tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao và các hoạt động xã hội khác; tạo điều kiện cho người đã cai nghiện học nghề, tìm việc làm, vay vốn, tiếp cận với các dịch vụ sản xuất, kinh doanh; huy động các tổ chức, cá nhân giúp đỡ người đã cai nghiện để tái hòa nhập cộng đồng.
4.4. Cai nghiện tự nguyện tại Trung tâm: được áp dụng đối với người nghiện ma túy không thuộc diện cai nghiện bắt buộc xin cai nghiện tự nguyện tại Trung tâm. Đối với trường hợp người tự nguyện là người chưa thành niên phải có sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ. Thời gian cai nghiện do người nghiện hoặc gia đình của người nghiện quyết định nhưng không được thấp hơn 6 tháng.
4.5. Cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm: Đưa đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm là một biện pháp được áp dụng đối với người nghiện đã lệ thuộc quá nhiều vào ma túy, cai nghiện tại gia đình, cộng đồng hoặc đã cai tại trung tâm không có kết quả, tái nghiện nhiều lần. Đây là biện pháp mang tính nhân văn, nhằm giúp người nghiện có thời gian tránh xa ma túy, vượt qua chính mình và nhận thức được tác hại của sự lệ thuộc vào ma túy, đồng thời, cung cấp cho họ các kỹ năng sống, kỹ năng nghề nghiệp để tìm việc làm, ổn định cuộc sống. Quan điểm này của Nhà nước Việt Nam cũng phù hợp với một trong những Nguyên tắc điều trị nghiện ma túy hiệu quả mà Viện nghiên cứu quốc gia về lạm dụng ma túy (NIDA) thuộc Bộ Y tế và Dịch vụ con người Hoa Kỳ (USDHHS) đã đưa ra và được Cơ quan Phòng chống tội phạm và ma túy của Liên hợp quốc (UNODC), Tổ chức Y tế thế giới (WHO) tán thành là: “Điều trị nghiện không nhất thiết phải tự nguyện để có hiệu quả” (Nguyên tắc số 10).
Thẩm quyền ra quyết định đưa đi cai nghiên bắt buộc tại Trung tâm thuộc Chủ tịch UBND cấp huyện. Mặc dù việc đưa người nghiện đi cai nghiện bắt buộc không phải là phán quyết của cơ quan Tư pháp như ở một số nước nhưng với những quy định hết sức chặt chẽ về thẩm quyền, thủ tục và trình tự tiến hành đã đảm bảo tính độc lập, khách quan của Chủ tịch UBND cấp huyện trong việc ra quyết định, đúng đối tượng, thể hiện tính thống nhất của pháp luật và đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý của người có hành vi vi phạm. Điều đó thể hiện ở một số điểm sau:
a) Việc áp dụng biện pháp đưa vào Cơ sở chữa bệnh phải được tiến hành theo các thủ tục pháp lý được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật: (Mục 4, Chương VI, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và các văn bản hướng dẫn thi hành, Nghị định số 135/2004/NĐ-CP, Nghị định số 61/2011/NĐ-CP, Thông tư liên tịch số 22/2004/TTLT/BLĐTBXH-BCA).
b) Hồ sơ đưa người vào cơ sở chữa bệnh phải do cơ quan công an cấp xã lập, thẩm định theo mẫu được ban hành.
c) Chủ tịch UBND cấp huyện khi quyết định áp dụng biện pháp đưa vào Cơ sở chữa bệnh phải căn cứ trên cơ sở đề nghị của Hội đồng Tư vấn, gồm 4 thành viên: Trưởng phòng Lao động - Thương binh và Xã hội, Trưởng phòng Tư pháp, Trưởng Công an huyện, Chủ tịch Hội phụ nữ cấp huyện. Trưởng phòng Lao động - Thương binh và Xã hội là thường trực Hội đồng Tư vấn.
d) Người được áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh được quyền khiếu nại hoặc khởi kiện ra trước toà hành chính về quyết định của Chủ tịch UBND cấp huyện.
e) Việc thi hành Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính được giám sát bởi Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, và được kiểm tra bởi các cơ quan Chính phủ.
4.6. Cai nghiện tại các cơ sở dân lập: Nhằm đẩy mạnh xã hội hóa công tác cai nghiện, khuyến khích các cá nhân, tổ chức đoàn thể xã hội, doanh nghiệp, người dân tham gia vào công tác cai nghiện, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 147/2003/NĐ-CP ngày 02/12/2003 quy định về điều kiện, thủ tục cấp giấy phép và quản lý hoạt động cai nghiện của các cơ sở cai nghiện ma tuý tự nguyện. Hiện nay trên địa bàn cả nước có 19 cơ sở cai nghiện dân lập, có khả năng cai nghiện cho khoảng 3000 người nghiện. Các cơ sở cai nghiện dân lập thu hút người tự nguyện vào cai, chủ yếu là người nghiện nhẹ và có khả năng đóng góp đầy đủ các chi phí theo chế độ hạch toán lấy thu bù chi của các cơ sở này. Thời gian điều trị cai nghiện ở các cơ sở dân lập thường từ 3- 6 tháng, ngắn hơn các ở các trung tâm do ngành Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý.
4.7. Quy trình cai nghiện: Theo quy định tại Thông tư liên tịch số 41/2010/TTLT-BLĐTBXH-BYT của liên Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế về hướng dẫn quy trình cai nghiện, cho người nghiện ma túy tại các Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động xã hội và cơ sở cai nghiện ma túy tự nguyện, quy trình cai nghiện cho người nghiện tại Trung tâm được chia làm 5 giai đoạn, bao gồm: 1) Giai đoạn tiếp nhận, phân loại, điều trị cắt cơn, giải độc (5% thời gian); 2) Giai đoạn điều trị các bệnh nhiễm trùng cơ hội (5%); 3) Giai đoạn giáo dục, tư vấn, phục hồi hành vi nhân cách (30%); 4) Giai đoạn lao động học nghề (40%); 5) Giai đoạn phòng chống tái nghiện, chuẩn bị tái hòa nhập cộng đồng (20%). Thời gian thực hiện quy trình từ 1- 2 năm tùy theo mức độ lệ thuộc ma túy của người nghiện.
Với từng loại hình hoạt động chăm sóc, điều trị và hỗ trợ cho người nghiện ma túy trong Trung tâm, Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội phối với các Bộ, ngành liên quan đã có những văn bản hướng dẫn cụ thể như: Thông tư liên tịch số 30/1999/TTLT/BLĐTBXH- BYT ngày 20/12/1999 của liên Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế hướng dẫn quản lý các hoạt động y tế ở các cơ sở chữa bệnh thuộc Ngành Lao động - Thương binh và Xã hội; Thông tư số 12/2004/TT-BLĐTBXH ngày 02/11/2004 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn tổ chức công tác dạy nghề tại các Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động xã hội; Thông tư liên tịch số 56/2005/TTLT-BTC-BLĐTBXH ngày 5/7/2005 của liên Bộ Tài chính, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn chế độ trợ cấp cho người không có nơi cư trú nhất định vào lưu trú tạm thời tại cơ sở chữa bệnh; Thông tư liên tịch số 32/2005/TTLT-BLĐTBXH-BYT ngày 09/11/2005 của liên Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế hướng dẫn phòng chống lao, HIV/AIDS và các bệnh lây truyền quan đường tình dục tại Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động xã hội; Thông tư liên tịch số 01/2006/TTLT-BLĐTBXH-BGD&ĐT-BYT ngày 18/01/2006 của liên Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế hướng dẫn công tác dạy văn hóa, giáo dục phục hồi hành vi nhân cách cho người nghiện ma túy, người bán dâm và người sau cai nghiện ma túy; Thông tư liên tịch số 117/2007/TTLT/BTC-BLĐTBXH ngày 01/10/2007 của liên Bộ Tài chính, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn chế độ trợ cấp đối với người nghiện ma túy, người bán dâm; Thông tư liên tịch số 121/2010/TTLT-BTC-BLĐTBXH ngày 12/8/2010 của Bộ Tài chính, Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn hỗ trợ đối với người sau cai nghiện ma túy,...
III. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÔNG TÁC CAI NGHIỆN
Hàng năm, các địa phương trong cả nước đã tổ chức cai nghiện cho khoảng 40.000 - 50.000, người chiếm 25-30 % số người nghiện có hồ sơ quản lý. Số người được cai nghiện tại các Trung tâm mỗi năm khoảng 30-35 ngàn, trong đó khoảng 80% là cai bắt buộc, 20% cai tự nguyện. Số cai tại cộng đồng bình quân 10.000 người/ năm.
1. Cai nghiện tại Trung tâm
Việc cai nghiện ma tuý ở trung tâm và cộng đồng được thực hiện theo Thông tư liên tịch số 41/2010/TTLT/BLĐTBXH-BYT và các văn bản hướng dẫn có liên quan. Kết quả các mặt hoạt động cụ thể của công tác cai nghiện ma túy tại Trung tâm như sau:
1.1. Hỗ trợ điều trị cắt cơn, chăm sóc về y tế: Giai đoạn điều trị, cắt cơn được thực hiện từ 10 - 20 ngày, theo các phác đồ do Bộ Y tế hướng dẫn như điện châm, dùng thuốc Bông Sen, an thần kinh, Cedemex…
Các Trung tâm đều có Phòng Y tế làm nhiệm vụ chăm sóc sức khoẻ cho học viên. Các Phòng Y tế được đảm bảo về cơ sở vật chất, được trang bị cơ số thuốc theo quy định và quản lý theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 30/1999/TTLT/BLĐTBXH- BYT. Mỗi Trung tâm đều có khu cách li bệnh truyền nhiễm. Trung tâm phối hợp với các Bệnh viện, Trung tâm Y tế dự phòng của địa phương tư vấn, khám, điều trị bệnh cơ hội, chăm sóc sức khoẻ cho học viên theo định kỳ. Học viên ốm vượt khả năng điều trị của Trung tâm được chuyển đến bệnh viện tuyến trên hoặc chuyên khoa điều trị. Hàng năm, các Trung tâm đã khám và điều trị bệnh cơ hội cho từ 10.000 đến 12.000 lượt học viên, chuyển lên tuyến trên điều trị cho gần 5.000 lượt người mắc bệnh nặng, vượt quá khả năng của Trung tâm.
Công tác truyền thông, giáo dục phòng chống lao và HIV/AIDS cho học viên được chú trọng triển khai trong các Trung tâm, dưới nhiều hình thức như panô, áp phích, tờ rơi, tờ gấp, tư vấn, sinh hoạt tổ, sinh hoạt nhóm, sinh hoạt chuyên đề; xây dựng và thực hiện các quy chế về phòng chống lây nhiễm chéo lao và HIV/AIDS tại cơ sở, v.v… Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với Bộ Y tế triển khai các chương trình tập huấn nâng cao nghiệp vụ về phòng, chống lao và phòng, chống lây nhiễm HIV cho cán bộ y tế của các Trung tâm.
Người nhiễm HIV/AIDS trong trung tâm được đối xử bình đẳng, được sống chung, lao động học tập, vui chơi giải trí, tham gia các hoạt động văn nghệ, thể thao như các học viên khác; 100% được lập hồ sơ bệnh án theo dõi sức khoẻ, khám sức khoẻ định kỳ. Hiện nay, có 35 Trung tâm thuộc 28 tỉnh, thành phố tham gia vào dự án Quỹ toàn cầu về phòng chống HIV/AIDS. Trong năm 2010, các Trung tâm này đã tổ chức tư vấn xét nghiệm HIV tự nguyện cho gần 9.000 người, tổ chức điều trị ARV cho gần 900 người.
1.2. Tư vấn, giáo dục, phục hồi hành vi nhân cách: Đây là một phần quan trọng của quy trình cai nghiện ma túy và được các Trung tâm chú trọng triển khai thực hiện. Các chương trình tư vấn được triển khai tại trung tâm gồm có: tư vấn cá nhân, tư vấn nhóm, tư vấn gia đình. Ngoài ra, một số Trung tâm cũng đã triển khai mô hình cộng đồng trị liệu theo chương trình do tổ chức DAYTOP hướng dẫn. Việc thực hiện các hoạt động tư vấn, trị liệu cộng đồng đã góp phần xây dựng tình cảm thân thiện, gần gũi, chia sẻ, tạo động lực cho các học viên vượt qua mặc cảm của bản thân, tích cực tham gia vào các hoạt động văn hoá, học nghề.
Chương trình học văn hóa được đưa vào chính thức trong các trung tâm và thực hiện theo Thông tư liên tịch số 01/2006/TTLT-BLĐTBXH-BGD&ĐT-BYT, theo đó người nghiện ma tuý và người sau cai nghiện ma túy đang chữa trị, cai nghiện tại Trung tâm với thời gian từ 6 tháng trở lên và đủ sức khoẻ được quyền tham gia học văn hoá. Trung tâm có trách nhiệm phối hợp với các Trung tâm giáo dục thường xuyên của địa phương tổ chức các lớp học văn hoá phù hợp với trình độ của từng đối tượng. Các chương trình dạy văn hóa tại trung tâm gồm có chương trình tiểu học (bao gồm cả xóa mù chữ), chương trình trung học cơ sở và chương trình trung học phổ thông. Nội dung chương trình học, yêu cầu về giảng viên, tổ chức thi và cấp bằng tốt nghiệp phổ thông cho người nghiện và người sau cai nghiện tại Trung tâm được thực hiện theo quy định của ngành giáo dục, đồng thời phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lý của người nghiện ma tuý và người sau cai nghiện ma tuý. Hàng năm, có khoảng 3.000 người nghiện được Trung tâm tổ chức dạy văn hóa.
1.3. Dạy nghề: Một trong những nguyên nhân chính khiến nhiều người sau cai nghiện ma túy lại tái nghiện là do thiếu việc làm và thiếu tay nghề được đào tạo. Không có tay nghề chuyên môn nên khả năng tìm kiếm công việc rất khó khăn dẫn đến tỷ lệ tái nghiện cao. Nhằm hỗ trợ người sau cai nghiện tăng cơ hội tìm việc làm hoặc tự tạo việc làm, ổn định cuộc sống khi trở về tái hòa nhập cộng đồng, Nghị định số 135/2004/NĐ-CP quy định trách nhiệm của các Trung tâm trong tổ chức dạy nghề, hướng nghiệp cho đối tượng trong thời gian cai nghiện. Việc dạy nghề cho người nghiện tại các Trung tâm được thực hiện theo hướng dẫn tại Thông tư số 12/2004/TT-BLĐTBXH, theo đó các Trung tâm căn cứ vào nhu cầu của thị trường lao động tại địa phương, trình độ, sức khỏe, nhu cầu của học viên và điều kiện cơ sở vật chất, cán bộ của Trung tâm tổ chức dạy nghề hoặc liên kết với các trường dạy nghề, các cơ sở dạy nghề khác tại địa phương tổ chức dạy nghề cho học viên.
Hình thức dạy nghề cho người cai nghiện tại trung tâm là dạy nghề ngắn hạn dưới một năm. Học viên hoàn thành chương trình học nghề có đủ điều kiện theo quy định được dự kiểm tra và đánh giá, nếu đạt yêu cầu thì được cấp chứng chỉ nghề. Hình thức liên kết, chương trình dạy nghề, giáo viên, cơ sở vật chất, thẩm quyền và thủ tục cấp chứng chỉ nghề phải được thực hiện theo quy định của pháp luật về dạy nghề.
Việc dạy nghề tại Trung tâm thường được tổ chức theo hình thức vừa học vừa làm, kết hợp với lao động trị liệu, lao động sản xuất nhằm phục hồi chức năng, hoặc khai thác tiềm năng sẵn có của Trung tâm để làm ra sản phẩm phục vụ cho sinh hoạt của học viên.
Trong 5 năm từ 2006 - 2010, đã có 30.697 người cai nghiện tại các Trung tâm được tổ chức học nghề. Các nghề được dạy phổ biến như: cơ khí (tiện, nguội, gò, hàn), may công nghiệp, trồng trọt, thủ công mỹ nghệ, cắt tóc, mộc dân dụng, tin học văn phòng, lái xe....
1.4. Tổ chức lao động sản xuất: Bên cạnh việc học nghề, người cai nghiện tại Trung tâm được tham gia chương trình lao động trị liệu để rèn luyện sức khoẻ, nâng cao kỹ năng sống, kỹ năng nghề nghiệp và phát triển nhận thức về giá trị của sức lao động, trách nhiệm của cá nhân với bản thân và xã hội.
Việc lao động trị liệu được thực hiện trong giai đoạn 3 và giai đoạn 4 của quy trình cai nghiện. Trong giai đoạn 3 “giáo dục, tư vấn phục hồi hành vi nhân cách” người nghiện được tổ chức tham gia các hoạt động lao động nhẹ như: dọn dẹp vệ sinh nơi ở, nấu ăn, tưới rau, chăm sóc cây trồng… Trong giai đoạn 4 “lao động trị liệu” người nghiện được tổ chức lao động sản xuất dựa vào sức khỏe, giới tính, nghề nghiệp của bản thân.
Lao động trị liệu trong các cơ sở chữa bệnh không phải là lao động sản xuất mang tính kinh doanh. Sản phẩm từ lao động của học viên chủ yếu góp thêm vào cải thiện bữa ăn cho chính bản thân của học viên tại cơ sở. Học viên khi tham gia lao động được trang bị đầy đủ các thiết bị, dụng cụ bảo hộ lao động cần thiết, phù hợp với từng loại công việc và được hưởng các chế độ về an toàn lao động, bảo hộ lao động, bảo hiểm… và hoàn toàn được hưởng thành quả lao động của mình theo quy định của Bộ luật Lao động.
1.5. Chế độ quản lý, sinh hoạt văn hóa, thể dục, thể thao: Trong thời gian thực hiện quyết định cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm, người cai nghiện được đảm bảo thực hiện đầy đủ các quyền lợi và trách nhiệm theo quy định của pháp luật như: Được bố trí chỗ ở phù hợp, đảm bảo đủ tiện nghi cần thiết cho sinh hoạt, học tập; được bố trí khu ở riêng nếu là nữ hoặc người chưa thành niên; được tiếp đón thân nhân thăm gặp; được hưởng các chế độ khám bệnh, chữa bệnh; được học văn hóa, học nghề; được tham gia các hoạt động văn hóa, thể thao và các hình thức sinh hoạt tập thể do đơn vị tổ chức; được đóng góp ý kiến, khiếu nại với Trung tâm và các đơn vị cá nhân có liên quan; được khen thưởng khi có thành tích xuất sắc trong học tập, rèn luyện; được giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn phần thời gian còn lại tại Trung tâm khi có thành tích, ốm đau hoặc thai sản; được hưởng các sản phẩm hay thu nhập làm ra khi tham gia lao động sản xuất tại Trung tâm, v.v... Người nghiện ma túy chưa thành niên khi cai nghiện tại Trung tâm ngoài được bố trí khu ở riêng còn được hưởng các chính sách hỗ trợ khác về chăm sóc y tế, học văn hóa, học nghề, kinh phí cai nghiện...
Để duy trì chế độ cai nghiện, chữa trị cho học viên và đảm bảo giữ gìn an ninh trật tự trong Trung tâm, luật pháp Việt Nam cho phép Giám đốc Trung tâm được áp dụng các biện pháp cưỡng chế. Tuy nhiên, các biện pháp này chỉ được áp dụng trong một số trường hợp cụ thể khi học viên nhiều lần cố tình không chấp hành các nội quy của Trung tâm hay khi học viên có hành vi làm mất an ninh trật tự, xâm hại sức khoẻ và danh dự, nhân phẩm của người khác hoặc xâm hại tài sản của Trung tâm. Mọi hành vi xâm phạm thân thể, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của người đang chấp hành kỷ luật trong Trung tâm bị pháp luật nghiêm cấm.
2. Đầu tư cho công tác cai nghiện và các chế độ chính sách hỗ trợ
Các chi phí cai nghiện hàng năm được bố trí từ ngân sách nhà nước cùng với việc huy động sự đóng góp của gia đình người nghiện hoặc người nghiện và các nguồn đóng góp hợp pháp của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước.
Người tham gia cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm được nhà nước hỗ trợ tiền thuốc chữa bệnh, thuốc hỗ trợ cai nghiện, hỗ trợ học nghề, học văn hóa và mua sắm vật dụng sinh hoạt cá nhân cần thiết; được hỗ trợ một phần tiền ăn trong thời gian chấp hành quyết định cai nghiện bắt buộc, hỗ trợ tiền ăn đường và tiền tàu xe trở về gia đình sau khi hoàn thành quyết định cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm, tiền tái hòa nhập cộng đồng và các khoản chi phí khác. Đối với những người thuộc hộ nghèo, gia đình chính sách theo Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng, người chưa thành niên, người nhiễm HIV/AIDS, người không có nơi cư trú nhất định được hỗ trợ toàn bộ tiền ăn trong thời gian cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm.
Đối với hình thức cai tại cộng đồng, Nhà nước hỗ trợ tiền thuốc cắt cơn, giải độc và một phần chi phí cho các hoạt động của Tổ công tác cai nghiện. Người sau cai nghiện có hoàn cảnh khó khăn, được hỗ trợ kinh phí tái hòa nhập cộng đồng, người có nhu cầu vay vốn giải quyết việc làm đựơc vay với thủ tục đơn giản và lãi suất ưu đãi, kèm theo dịch vụ tư vấn sử dụng vốn vay hiệu quả. Bên cạnh các chế độ hỗ trợ của Nhà nước, các địa phương đã chủ động huy động sự hỗ trợ của các doanh nghiệp như tiếp nhận người sau cai vào làm việc, trợ cấp vốn, cho vay vốn từ các chương trình quốc gia giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo. Hầu hết, các tỉnh thành phố đã thành lập các Đội công tác xã hội tình nguyện cấp xã để huy động sự tham gia của cộng đồng vào giúp đỡ người sau cai nghiện, tổ chức các câu lạc bộ đồng đẳng, câu lạc bộ gia đình sau cai, nhóm bạn giúp bạn... Các yếu tố hỗ trợ của cộng đồng đã giúp người nghiện giảm mặc cảm, có thêm các điều kiện để giải quyết việc làm, tham gia vào các hoạt động tại cộng đồng và tái hoà nhập động cộng đồng bền vững. Tỷ lệ người tái hoà nhập cộng đồng thành công ngày càng cao. Tại thành phố Hồ Chí Minh, số đối tượng từ Trung tâm trở về cộng đồng đang được quản lý là 10.294 người, tỷ lệ tái nghiện sau 1 năm là 20%,; tỷ lệ có việc làm là 70,4%.
3. Thí điểm các mô hình mới
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã phối hợp cùng với Bộ, ngành liên quan và các địa phương trong thời gian qua luôn nghiên cứu, đổi mới, thí điểm triển khai các mô hình nhằm nâng cao hiệu quả công tác cai nghiện phục hồi, điển hình như:
3.1. Mô hình cai nghiện tại cộng đồng và quản lý sau cai của tỉnh Sơn La: Là tỉnh miền núi có số lượng lớn người nghiện là đồng bào dân tộc thiểu số, từ năm 2006, Sơn La đã tập trung đẩy mạnh công tác cai nghiện và quản lý sau cai tại cộng đồng nhằm hỗ trợ và tạo điều kiện cho người nghiện được tiếp cận dễ dàng hơn với các dịch vụ cai nghiện, nâng cao hiệu quả công tác cai nghiện. Mô hình cai nghiện tại cộng đồng của Sơn La đã phát huy mạnh mẽ sự tham gia của thôn bản, tổ dân phố, các tổ chức đoàn thể trong việc vận động người nghiện ma túy tự giác khai báo tình trạng nghiện, hỗ trợ cai nghiện cắt cơn tại cộng đồng, hỗ trợ quản lý người cai nghiện và chăm sóc sau cai. Sau 10 ngày hỗ trợ cắt cơn, người nghiện được tham gia sinh hoạt tại các câu lạc bộ sau cai; 10 ngày/lần được hỗ trợ tiền ăn tiền thăm hỏi. Hết 12 tháng, nếu không tái nghiện được cấp giấy chứng nhận hoàn thành quy trình cai nghiện và được tiếp tục quản lý sau cai tại cộng đồng trong 12 tháng. Định kỳ hàng tháng người sau cai nghiện báo cáo với chính quyền cơ sở về kết quả cai nghiện. Sau 12 tháng nếu không tái nghiện sẽ đưa ra khỏi danh sách quản lý. Trường hợp đã kết luận nghiện và có hồ sơ quản lý mà người nghiện không tự giác xin đi cai nghiện hoặc người đã được hỗ trợ cắt cơn tại cộng đồng mà tái nghiện thì lập hồ sơ đưa vào Trung tâm cai nghiện cấp tỉnh và huyện (có 11 Trung tâm trong toàn tỉnh). Với cách làm trên, trong một thời gian ngắn, cơ bản Sơn La đã tổ chức cai nghiện được cho hầu hết số người nghiện của địa phương, góp phần hạn chế tối đa tỷ lệ tái nghiện và không để phát sinh người nghiện mới.
3.2. Mô hình cai nghiện theo cụm xã cho đồng bào dân tộc vùng cao ở tỉnh Lào Cai: Mô hình được bắt đầu triển khai từ năm 2004 cho 5 xã thuộc huyện Bát Xát tỉnh Lào Cai, tới năm 2008 được mở rộng ra thêm cho 3 xã lân cận thuộc huyện Sa Pa. Thực hiện mô hình này, một Trung tâm cai nghiện cộng đồng theo cụm xã được thành lập tại xã Mường Hum, địa điểm thuận lợi nhất cho việc đi lại của người nghiện thuộc tất cả các xã trong cụm.
Để chuẩn bị triển khai các hoạt động cai nghiện tại cộng đồng, trước hết công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức, giảm kỳ thị phân biệt đối xử đối với người nghiện được triển khai tới từng thôn bản, từng gia đình, người dân về tác hại của nghiện ma túy và lợi ích của cai nghiện; sử dụng ngôn ngữ riêng của mỗi dân tộc để thuyết phục các già làng, trưởng bản, người đứng đầu dòng họ tham gia vận động người người nghiện và gia đình cam kết tham gia chương trình cai nghiện tại cộng đồng với thông điệp “thoát nghiện để thoát nghèo”. Khi việc tuyên truyền đạt được sự đồng thuận cao trong cộng đồng mới tổ chức triển khai hoạt động cai nghiện.
Bên cạnh đó, về mặt cán bộ, chuyên môn, Trung tâm cai nghiện của tỉnh, huyện cử y, bác sỹ tới tập huấn cho cán bộ y tế xã và trực tiếp hỗ trợ điều trị cắt cơn cho người nghiện tại Trung tâm xã. Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tổ chức các lớp tập huấn nâng cao nghiệp vụ về tư vấn, giáo dục cho các cán sự xã hội, công an viên là người dân tộc.
Người nghiện được cai nghiện trong thời gian 6 tháng tại trung tâm cụm xã. Việc tổ chức đưa người đi cai nghiện được thực hiện theo phương thức “cuốn chiếu” theo từng thôn, bản để khi tái hoà nhập cộng đồng người nghiện không còn bạn nghiện rủ rê, lôi kéo, tạo điều kiện thuận lợi cho triển khai công tác quản lý sau cai nghiện và kiểm soát địa bàn. Người nghiện của xã nào thì cán bộ xã đó đưa đi cai nghiện. Tại trung tâm cai, người nghiện thuộc dân tộc nào được cán bộ dân tộc đó hỗ trợ, tư vấn.
Việc cai nghiện được thực hiện theo quy trình khép kín, từ cắt cơn, tư vấn, lao động trị liệu, học nghề, hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng và quản lý sau cai. Sau 6 tháng, học viên tự bình xét, lựa chọn học viên tích cực, nhà nghèo được vay vốn tín dụng nhỏ để mua cây trồng, vật nuôi, học nghề truyền thống tại địa phương. Trung tâm khuyến nông huyện đến từng xã giúp đỡ làm thủ tục, ký kết, cho vay và thu hồi lãi.
Sau thời gian cai nghiện, học viên trở về cộng đồng và tham gia sinh hoạt hàng tuần tại các câu lạc bộ sau cai được thành lập tại mỗi xã. Câu lạc bộ sau cai với Ban chủ nhiệm có từ 5 - 7 người là thành viên của các tổ chức, đoàn thể thường xuyên tới thăm hỏi, động viên, giúp đỡ, tư vấn cho người sau cai nghiện, kết hợp với các biện pháp khuyến khích bằng lợi ích vật chất cho người sau cai nghiện và gia đình.
Đồng thời với việc tổ chức cai nghiện cho người nghiện ma túy, công tác kiểm soát địa bàn được tăng cường với sự tham gia phối hợp của Ngành Công an và Đội công tác xã hội tình nguyện xã, tạo môi trường trong sạch không có ma tuý giúp người nghiện giảm thiểu nguy cơ tái nghiện.
Với sự chỉ đạo sát sao, kiên quyết của chính quyền các cấp từ tỉnh xuống huyện, xã và sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan, ban, ngành trong việc triển khai các hoạt động cai nghiện, quản lý sau cai nghiện và cơ chế báo cáo giám sát chặt chẽ, tới cuối 2010, cụm cai nghiện Mường Hum đã tổ chức cai nghiện phục hồi an toàn 632 lượt người, chiếm 84,39% số đối tượng có hồ sơ quản lý; giảm số người nghiện chích ma tuý từ 850 của huyện xuống còn 400 người; giảm tỷ lệ tái nghiện sau 3 năm còn 25%. Mô hình này đang được Sở Lao động Thương binh Xã hội tỉnh Lào Cai nhân rộng ra một số huyện khác ở địa phương.
3.3. Mô hình Trung tâm cai nghiện cấp huyện: Được ra đời chủ yếu ở các tỉnh miền núi như Thái Nguyên (06 trung tâm), Nghệ An (05 trung tâm), Sơn La (11 trung tâm), Tuyên Quang (6 trung tâm)... Trung tâm cấp huyện trực thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện, do huyện đầu tư kinh phí, quản lý, chỉ đạo vận hành. Học viên của các Trung tâm cấp huyện bao gồm cả người cai tự nguyện, cai bắt buộc, trong đó có cả những người đã thực hiện xong giai đoạn cắt cơn tại cộng đồng và tiếp tục thực hiện giai đoạn giáo dục và lao động trị liệu tại Trung tâm. Mô hình trung tâm cấp huyện đã tạo điều kiện thuận lợi cho các xã phường và gia đình đưa người nghiện đi cai nghiện cũng như cho việc thăm hỏi, động viên của gia đình. Tuy vậy, do được hình thành để đáp ứng nhu cầu cấp bách của địa phương nên hầu hết các Trung tâm cấp huyện còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế và cần được đầu tư hơn nữa về cơ sở vật chất, về cán bộ có chuyên môn, về kinh phí hoạt động và các chính sách hỗ trợ.
3.4. Mô hình các câu lạc bộ giúp đỡ người nghiện cai nghiện và tái hòa nhập cộng đồng được triển khai ở gần 600 xã, phường, thị trấn thuộc các tỉnh, thành phố khu vực đồng bằng như: Hà Nội, Nam Định, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Phòng, Ninh Bình, Hải Dương, Thái Bình, Nghệ An, Thanh Hoá, Hoà Bình, Cần Thơ, An Giang, Đà Nẵng, Khánh Hoà... Các mô hình được thực hiện dưới các hình thức như Câu lạc bộ cai nghiện ma tuý, Câu lạc bộ sau cai, Câu lạc bộ bạn giúp bạn, Tổ phụ nữ không có chồng con nghiện ma tuý… do các chi bộ Đảng, Hội cựu chiến binh, Hội phụ nữ, Đội công tác xã hội tình nguyện thực hiện dưới sự chỉ đạo, hỗ trợ của Đảng uỷ, Ủy ban nhân dân cấp xã.
Các mô hình đều có các hoạt động tương tự như vận động, giúp người nghiện đi cai nghiện, trực tiếp thăm hỏi động viên hàng ngày, tư vấn, tổ chức các hoạt động văn hoá, xã hội, bảo lãnh vay vốn, tạo việc làm cho đối tượng và gia đình vợ con họ, trợ cấp khó khăn, xin việc làm cho đối tượng vào các cơ sở sản xuất, họp mặt nhân các ngày lễ, tết để khen thưởng, động viên... Nguồn kinh phí thực hiện từ vận động đóng góp của người dân, hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, đồng thời lồng ghép với các chương trình xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm, xây dựng xã phường lành mạnh không có ma tuý, toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống mới ở khu dân cư… Với các hình thức hỗ trợ trên, tỷ lệ tái nghiện dưới 50% từ 1-5 năm sau cai.
3.5. Mô hình điều trị duy trì thay thế bằng Methadone cho người nghiện chất ma túy dạng thuốc phiện: Đây là mô hình do Bộ Y tế chủ trì, phối hợp chính quyền một số tỉnh, thành phố có tỷ lệ người nghiện chích các chất ma túy dạng thuốc phiện cao. Mục tiêu của mô hình là góp phần làm giảm lây nhiễm HIV và một số bệnh có liên quan trong nhóm người nghiện các chất dạng thuốc phiện và từ nhóm người nghiện các chất dạng thuốc phiện ra cộng đồng, cải thiện sức khỏe và chất lượng cuộc sống, hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho người sau cai nghiện.
Tính tới cuối tháng 5/2011, mô hình đã được triển khai ở 9 tỉnh thành phố với 21 điểm điều trị Methadone với tổng số 3.413 người nghiện đang được điều trị, trong đó số điều trị duy trì là 2.670 người, số đang trong giai đoạn dò liều là 795 người.
Theo đánh giá của Bộ Y tế, chương trình điều trị duy trì thay thế bằng Methadone đã đáp ứng được nguyện vọng và đạt được sự ủng hộ của nhiều người nghiện chích ma túy, của gia đình người nghiện và cộng đồng, bước đầu đã đạt được mục tiêu đề ra. Việc sử dụng Heroin trong nhóm bệnh nhân tham gia điều trị đã giảm đi đáng kể cả về tần suất và liều sử dụng; giảm nguy cơ lây nhiễm HIV trong nhóm đối tượng tham gia điều trị; đa số bệnh nhân có cải thiện về sức khỏe, chuyển biến tích cực về thái độ cũng như cuộc sống sau một thời gian điều trị; môi trường xung quanh nơi đặt cơ sở điều trị thay đổi tích cực, nhất là về mặt trật tự xã hội, giảm tỷ lệ vi phạm pháp luật trong số những người tham gia chương trình. Dự kiến tới cuối năm 2015, chương trình sẽ triển khai mở rộng tới 30 tỉnh, thành phố cho 80.000 người nghiện chất dạng thuốc phiện.
IV. MỘT SỐ TỒN TẠI VÀ NGUYÊN NHÂN
1. Tồn tại
Mặc dù nhà nước đã ban hành một hệ thống các quy định pháp luật tương đối đầy đủ về công tác cai nghiện phục hồi nhưng trong thực tế triển khai thực hiện công tác vẫn còn nhiều tồn tại, điển hình như:
- Công tác quản lý người nghiện còn mang tính hành chính, chưa quan tâm đầy đủ đến nhu cầu cá nhân của người nghiện, một số cán bộ ngại trách nhiệm hoặc thiếu gần gũi với người cai nghiện. Hoạt động tư vấn, nâng cao động lực cho người nghiện ít được chú trọng.
- Môi trường, cảnh quan ở một số Trung tâm chưa được cải thiện theo hướng thân thiện, gần gũi gây nên những ức chế về tâm lý cho người nghiện và gia đình họ.
- Công tác quản lý lâu dài dựa vào cộng đồng để dự phòng tái nghiện chưa được quan tâm đúng mức nên tỷ lệ tái nghiện còn cao.
2. Nguyên nhân
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới các tồn tại trong công tác cai nghiện tại Việt Nam thời gian qua, trong đó có các nguyên nhân chủ yếu như:
- Nhận thức của một bộ phận cán bộ về nghiện ma túy và công tác cai nghiện ma túy chưa thực sự đầy đủ, dẫn đến hạn chế trong chỉ đạo, đầu tư và tổ chức thực hiện công tác cai nghiện phục hồi.
- Đội ngũ cán bộ làm công tác cai nghiện chưa được đào tạo bài bản, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm bản thân. Việc tập huấn nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ còn nhiều hạn chế.
- Đầu tư về cơ sở vật chất, thiết bị cho các Trung tâm cai nghiện chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra, cơ sở vật chất còn thiếu thốn, trang thiết bị nghèo nàn.
- Chính sách, chế độ hỗ trợ cho cán bộ còn chưa phù hợp dẫn tới khó khăn trong việc thu hút cán bộ chuyên môn, đặc biệt cán bộ y tế tới làm việc tại các Trung tâm cai nghiện. Chính sách hỗ trợ về tài chính cho người cai nghiện tại Trung tâm cũng còn chưa đáp ứng được nhu cầu.
- Công tác cai nghiện tại gia đình tại cộng đồng chưa được quan tâm đầu tư đúng mức về vật chất, cán bộ và chính sách. Nhiều năm trước, kinh phí cho các hoạt động cai nghiện tại cộng đồng chủ yếu từ nguồn huy động đóng góp từ các nguồn ngoài ngân sách. Cán bộ vừa thiếu, vừa không được đạo tạo bài bản, thiếu bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ dẫn tới hạn chế khả năng thực hiện các biện pháp chuyên môn trong cai nghiện.
- Sự kỳ thị, phân biệt, đối xử với người nghiện còn phổ biến trong cộng đồng dân cư làm hạn chế khả năng tiếp cận các dịch vụ cai nghiện và tái hòa nhập cộng đồng của người nghiện ma túy. Số người nghiện gia tăng nhanh với sự phức tạp về các loại ma túy sử dụng gây khó khăn cho công tác tổ chức cai nghiện tại gia đình, cộng đồng và trung tâm.
V. ĐỊNH HƯỚNG VỀ GIẢI PHÁP TRONG THỜI GIAN TỚI
1. Về quan điểm
Những năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân đã đầu tư nhiều công sức cho công tác cai nghiện và đã đạt được những kết quả nhất định, tuy nhiên đây là một lĩnh vực rất khó khăn, cần dựa vào kinh nghiệm, bằng chứng thực tiễn và các kết quả nghiên cứu khoa học về nghiện ma túy và cai nghiện ma túy để đưa ra biện pháp cai nghiện hiệu quả, toàn diện và lâu dài.
Cần nhận thức nghiện ma túy là một bệnh mãn tính, khả năng tái nghiện cao, chịu nhiều tác động từ các yếu tố: cá nhân, gia đình, việc làm, bạn bè, xã hội… Vì vậy, việc điều trị cho người nghiện ma túy phải sử dụng đồng bộ các giải pháp y tế, tâm lý, xã hội theo một quy trình lâu dài và có sự tham gia thống nhất của các Bộ, ngành, đoàn thể, cộng đồng, bản thân người nghiện và gia đình họ.
Nghiện ma túy gắn với nguy cơ cao về lây nhiễm HIV và các hành vi vi phạm trật tự xã hội, vì vậy các biện pháp điều trị nghiện ma túy với cách tiếp cận giảm hại cần phải được quan tâm thực hiện cho các nhóm đối tượng phù hợp.
2. Biện pháp
- Rà soát hệ thống Trung tâm cai nghiện để quy hoạch, điều chỉnh trên nguyên tắc không mở rộng thêm các Trung tâm, chuyển dần từ quy mô lớn sang quy mô vừa và nhỏ, từ khép kín sang mở rộng, tăng khả năng tiếp cận với các dịch vụ điều trị nghiện cho người nghiện ma túy, giảm số đối tượng cai bắt buộc, tăng số người cai nghiện tự nguyện.
- Đẩy mạnh đầu tư cho chương trình cai nghiện tại cộng đồng về cán bộ, cơ sở vật chất, kinh phí, cơ chế chính sách. Tạo điều kiện cho nhiều người nghiện ma túy tham gia cai tự nguyện, tại gia đình, xã phường. Xóa bỏ tình trạng cắt cơn nghiện đơn thuần, kết hợp điều trị nghiện bằng dược lý với các các hoạt động tư vấn, dạy nghề, tạo việc làm, chăm sóc y tế, hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng, giám sát sau cai nghiện. Triển khai thí điểm các mô hình cai nghiện mới như trung tâm mở, tại cộng đồng, mô hình điều trị duy trì - thay thế bằng Methadone.
- Tổ chức khảo sát tình hình và đánh giá xu hướng lạm dụng các chất gây nghiện tại Việt Nam làm cơ sở xây dựng chiến lược về điều trị nghiện ma túy.
- Rà soát và nghiên cứu sửa đổi các quy định pháp luật chưa phù hợp với thực tế tình hình, đảm bảo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật liên quan đến công tác cai nghiện và giảm hại lây nhiễm HIV.
- Tăng cường công tác thông tin, truyền thông giáo dục trong cộng đồng nhằm nâng cao hiểu biết về ma túy và tác hại của nó, xóa bỏ kỳ thị và phân biệt đối xử với người nghiện.
- Nâng cao nhận thức của lãnh đạo các cấp có liên quan về nghiện ma túy và điều trị nghiện ma túy; tăng cường năng lực cho cán bộ làm công tác cai nghiện phục hồi thông qua việc xây dựng và triển khai các chương trình bồi dưỡng, đào tạo nghiệp vụ về điều trị nghiện ma túy, đồng thời chuẩn hóa và đưa nội dung đào tạo về điều trị nghiện ma túy vào giáo trình đào tạo cho sinh viên ngành công tác xã hội./.
Nơi nhận: |
KT. BỘ TRƯỞNG |
Báo cáo 69/BC-LĐTBXH về công tác cai nghiện ma túy tại Việt Nam thời gian qua do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành
Số hiệu: | 69/BC-LĐTBXH |
---|---|
Loại văn bản: | Báo cáo |
Nơi ban hành: | Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội |
Người ký: | Nguyễn Thanh Hoà |
Ngày ban hành: | 08/09/2011 |
Ngày hiệu lực: | Đã biết |
Tình trạng: | Đã biết |
Văn bản đang xem
Báo cáo 69/BC-LĐTBXH về công tác cai nghiện ma túy tại Việt Nam thời gian qua do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành
Chưa có Video