HỘI
ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
141-HĐBT
|
Hà
Nội, ngày 13 tháng 11 năm 1986
|
NGHỊ ĐỊNH
CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG SỐ 141-HĐBT NGÀY 13-11-1986
BAN HÀNH QUY CHẾ VỀ BUỘC PHẢI CHỊU THỬ THÁCH ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
Căn cứ Luật tổ chức Hội đồng
Bộ trưởng ngày 4-7-1981;
Để thực hiện điều 61 của Bộ Luật hình sự đã được Quốc hội thông qua ngày 27
tháng 6 năm 1985,
NGHỊ ĐỊNH :
Điều
1. - Nay ban hành kèm theo Nghị định này Quy chế buộc phải chịu thử thách đối
với người chưa thành niên phạm tội.
Quy chế này áp dụng đối với những
người chưa thành niên (từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi) phạm tội ít nghiêm trọng
đã bị Toà án quyết định buộc phải chịu thử thách.
Điều
2. - Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ban hành.
Điều
3. - Các Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước, Thủ trưởng các cơ quan khác
thuộc Hội đồng Bộ trưởng, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố, đặc khu
trực thuộc Trung ương có trách nhiệm thi hành Nghị định này.
QUY CHẾ
VỀ BUỘC PHẢI CHỊU THỬ THÁCH ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
(Ban hành kèm theo Nghị định của Hội đồng Bộ trưởng số 141-HĐBT
ngày 13-11-1986).
Chương 1:
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều
1. - Buộc phải chịu thử thách là biện pháp tư pháp có tính chất giáo dục,
phòng ngừa do Toà án quyết định đối với người chưa thành niên (từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi) phạm tội ít nghiêm trọng nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa lỗi lầm,
phát triển lành mạnh để trở thành công dân có ích cho xã hội.
Việc giám sát, giáo dục người phải
chịu thử thách phải kết hợp sự quản lý của chính quyền cơ sở và tổ chức xã hội
với sự quản lý của gia đình; kết hợp giáo dục tư tưởng, đạo đức với lao động, học
tập văn hoá, nghề nghiệp.
Chương
2:
NHỮNG QUY ĐỊNH BẮT BUỘC
ĐỐI VỚI NGƯỜI PHẢI CHỊU THỬ THÁCH
Điều
3. - Người phải chịu thử thách phải chấp hành những quy định dưới đây:
1. Chấp hành nghiêm chỉnh pháp
luật Nhà nước và những quy định của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn và tổ
chức xã hội nơi cư trú.
2. Chấp hành đầy đủ những quy định
của cơ quan, tổ chức được giao trách nhiệm giám sát, giáo dục và những chỉ bảo
của cha mẹ hoặc người đỡ đầu, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn giao
trách nhiệm giám sát, giáo dục.
3. Tích cực tham gia lao động, học
tập và sửa chữa những lỗi lầm để tiến bộ.
4. Chỉ được đi lại trong phạm vi
quy định, nếu cư trú ở nội thành của thành phố trực thuộc Trung ương thì chỉ được
đi lại trong phạm vi nội thành; nếu cư trú ở ngoại thành của thành phố trực thuộc
Trung ương hoặc cấp tương đương thì chỉ được đi lại trong phạm vi huyện, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh; nếu đi ra ngoài phạm vi quy định thì phải được công
an xã, phường, thị trấn nơi cư trú cho phép.
5. Một tháng một lần người phải
chịu thử thách phải đến trình diện với công an xã, phường, thị trấn để báo cáo
tình hình sinh hoạt, học tập, lao động, chấp hành pháp luật của Nhà nước. Ba
tháng một lần phải kiểm điểm trước cơ quan hoặc tổ chức được giao trách nhiệm
giám sát, giúp đỡ tại nơi người đó học tập, lao động hoặc cư trú.
6. Phải có mặt khi Uỷ ban nhân
dân hoặc công an xã, phường, thị trấn, nơi cư trú triệu tập.
Điều
4. - Khi người phải chịu thử thách đã chấp hành được một nửa thời hạn, nếu
có nhiều tiến bộ thì cơ quan hoặc tổ chức được giao trách nhiệm giám sát, giáo
dục đề nghị Toà án xét, quyết định chấm dứt thời hạn thử thách.
Chương
3:
NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ TRÁCH
NHIỆM GIÁM SÁT, GIÁO DỤC
Điều
5. - Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người phải chịu thử thách
sinh sống, sau khi nhận được quyết định của Toà án, có trách nhiệm phối hợp với
các cơ quan, đoàn thể, tổ chức có liên quan để thực hiện việc giám sát, giáo dục,
sắp xếp việc làm hoặc học tập cho người đó và giao trách nhiệm giám sát, giáo dục
cho cha mẹ, hoặc cử người đỡ đầu để giúp họ sửa chữa lỗi lầm trở thành công dân
có ích.
Điều
6. - Các cơ quan, đơn vị có điều kiện cần phối hợp với Uỷ ban nhân dân xã,
phường thị trấn, có trách nhiệm nhận một số người chưa thành niên phạm tội để
giáo dục và đào tạo họ thành người lao động có ích cho xã hội.
Điều
7. - Công an xã, phường, thị trấn phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra người
buộc phải chịu thử thách chấp hành những nghĩa vụ quy định và liên hệ chặt chẽ với
cơ quan, đơn vị, hoặc gia đình có người phải chịu thử thách để theo dõi góp ý
kiến về việc giám sát, giáo dục người buộc phải chịu thử thách.
Điều 8.
- Các tổ chức thanh niên, phụ nữ, công đoàn, hội nông dân tập thể có trách nhiệm
phối hợp cùng công an xã, phường, thị trấn phân công đoàn viên, hội viên phụ
trách những người buộc phải chịu thử thách theo dõi nắm tình hình diễn biến của
đối tượng, có biện pháp giáo dục, cảm hoá, thuyết phục giúp họ có nhận thức, tư
tưởng đúng đắn, tự giác tiếp thu sửa chữa những lỗi lầm.
Điều
9. - Cha mẹ hoặc người đỡ đầu của người buộc phải chịu thử thách, phải đề
cao trách nhiệm của mình trong việc giám sát, giáo dục người phải chịu thử
thách chấp hành nghiêm túc và đầy đủ những nghĩa vụ do chính quyền, cơ quan,
đoàn thể quy định; thường xuyên liên hệ với chính quyền, công an, đoàn thể ở
xã, phường, thị trấn nơi cư trú để phối hợp giám sát, giáo dục có hiệu quả.
Điều
10. - Ba tháng 1 lần, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn được giao trách
nhiệm giám sát, giáo dục người phải chịu thử thách, phải tổ chức việc nhận xét,
đánh giá kết quả công tác giám sát, giáo dục và việc sửa chữa của người phải chịu
thử thách, có sự tham gia của các cơ quan, đoàn thể, tổ chức có liên quan và của
cha mẹ hoặc người đỡ đầu; áp dụng những biện pháp giáo dục, cải tạo cần thiết,
hoặc đề nghị Toà án quyết định chấm dứt thời hạn buộc phải chịu thử thách đối với
những người thực sự tiến bộ.
Điều
11. - Đơn vị, cá nhân nào có thành tích trong việc giám sát, giáo dục người
phải chịu thử thách, tuỳ theo mức độ thành tích sẽ được khen thưởng theo chế độ
khen thưởng của Nhà nước. Người nào vi phạm Quy chế này, sẽ tuỳ theo mức độ sai
phạm mà xử lý theo pháp luật hiện hành.
Chương
4:
ĐIỀU KHOẢN CUỐI CÙNG
Điều
12. - Các Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước, Thủ trưởng các cơ quan khác
thuộc Hội đồng Bộ trưởng, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố, đặc khu
trực thuộc Trung ương trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm
kiểm tra, chỉ đạo thực hiện Quy chế này.
Điều
13. - Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có trách nhiệm theo dõi, hướng
dẫn, kiểm tra, đôn đốc các ngành, các cấp thực hiện Quy chế này.