HỘI
ĐỒNG BỘ TRƯỞNG |
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 172-HĐBT |
Hà Nội, ngày 09 tháng 10 năm 1982 |
Nhằm sử dụng tiền tệ, tín dụng, ngân hàng như những công cụ có hiệu lực để cải tạo và phát triển kinh tế, tăng cường quản lý kinh tế - tài chính, Hội đồng Bộ trưởng quyết định:
Thông qua các hoạt động tiền tệ, tín dụng , thanh toán, ngân hàng phải phát huy vai trò kiểm tra, giám đốc các hoạt động kinh tế, không ngừng nâng cao hiệu quả đồng vốn, mở rộng lưu thông tiền tệ có tổ chức, đẩy lùi và xoá bỏ tệ cho vay lãi nặng; thực hiện vai trò trung tâm tiền mặt, trung tâm tín dụng và trung tâm thanh toán trong nền kinh tế quốc dân.
Mặt khác, bằng nguồn vốn tự huy động, ngân hàng phát triển tín dụng đối với những công trình xây dựng cơ bản trong khu vực kinh tế quốc doanh không thuộc kế hoạch dầu tư tập trung của Nhà nước, chủ yếu nhằm vào những mục tiêu đầu tư theo chiều sâu và giúp đỡ xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật đối với khu vực kinh tế tập thể.
Ngân hàng áp dụng lãi suất phạt đối với các khoản nợ không có vật tư, hàng hoá làm bảo đảm và phải thu hồi kịp thời, đầy đủ số nợ này.
Đối với các khoản vốn lưu động phải do ngân sách Nhà nước cấp phát, nhưng cơ quan tài chính chưa cấp đủ thì Ngân hàng tạm thời cho vay để khỏi trở ngại đến hoạt động của xí nghiệp và phải hạch toán riêng; cơ quan tài chính phải trả lại số vốn đó cho ngân hàng theo số thực tế đã phát sinh hàng tháng.
Để được vay ngoại tệ, xí nghiệp phải lập phương án sản xuất, kinh doanh cụ thể , kể cả việc xuất khẩu và thanh toán ngoại tệ, trình bộ trưởng Bộ chủ quản (nếu là xí nghiệp trung ương) hoặc chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố ,đặc khu trực thuộc trung ương (nếu là xí nghiệp địa phương) duyệt. Sau khi cùng ngân hàng trung ương xem xét nhu cầu và khả năng bảo đảm sử dụng vốn vay có hiệu quả kinh tế, cơ quan chủ quản giao kế hoạch pháp lệnh cho xí nghiệp.
Trong việc sử dụng vốn vay bằng ngoại tệ, xí nghiệp phải chấp hành các chế độ của Nhà nước về quản lý ngoại tệ, về tín dụng ngân hàng và về xuất nhập khẩu; phải bảo đảm sản xuất và kinh doanh có lãi bằng ngoại tệ, thanh toán được số ngoại tệ đã vay (cả gốc lẫn lãi) và nộp tích luỹ bằng ngoại tệ cho Nhà nước dưới hình thức quyền sử dụng ngoại tệ. Trường hợp xí nghiệp bị lỗ về ngoại tệ, bộ trưởng Bộ chủ quản hoặc chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu phải trích từ nguồn vốn tự có về ngoại tệ của ngành hoặc địa phương để hoàn lại cho ngân hàng số ngoại tệ đã vay, kể cả gốc lẫn lãi.
7. Ngân hàng Nhà nước áp dụng lãi suất đối với các trường hợp như sau:
- Lợi tức phải trả tiền vay về các hoạt động sản xuất, kinh doanh, xây dựng cơ bản bình thường trong kế hoạch tín dụng thì được tính vào giá thành sản phẩm, giá thành công trình xây dựng , phí lưu thông.
- Các khoản vay vốn phát sinh do khuyết điểm chủ quan của đơn vị thì phải chịu mức lãi suất cao hơn từ 2 đến 3 lần lãi suất bình thường và số lợi tức này phải trích từ lợi nhuận của đơn vị để trả ngân hàng.
- Các khoản tiền vay sử dụng đạt hiệu quả kinh tế cao thì được giảm 25% mức lãi so với lãi suất bình thường, và số lợi tức được giảm này được bổ sung vào lợi nhuận của đơn vị.
Các đơn vị phải mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng và phải chấp hành nghiêm chỉnh các chế độ của Nhà nước về quản lý tiền mặt và về thanh toán không dùng tiền mặt; không được để tiền mặt tồn quỹ hoặc toạ chi quá mức đã được ngân hàng thoả thuận. Nếu đơn vị và ngân hàng phục vụ không thoả thuận được về định mức tồn quỹ tiền mặt và định mức toạ chi thì báo cáo lên cơ quan quản lý cấp trên quyết định.
Các đơn vị phải gửi cho ngân hàng phục vụ mình kế hoạch tiền mặt hàng quý (có chia ra tháng) và chấp hành đúng đắn kế hoạch đã thống nhất với ngân hàng. Hàng tháng, phải báo cáo cho ngân hàng biết chính xác tình hình thu, chi tiền mặt, số tiền đã toạ chi và tồn quỹ cuối tháng. Ngân hàng phải xem xét và bổ khuyết kịp thời, trước khi tiếp tục cung ứng tiền mặt tháng kế tiếp cho đơn vị.
Hàng năm, Ngân hàng Nhà nước phải lập kế hoạch tiền mặt trình Hội đồng bộ trưởng phê duyệt cùng một lần với việc phê duyệt kế hoạch Nhà nước. Các cấp, các ngành chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện tốt chỉ tiêu kế hoạch tiền mặt được Nhà nước giao.
Trường hợp xí nghiệp giảm bớt được lao động mà vẫn hoàn thành hoặc hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất, kinh doanh, xây dựng cơ bản, thì ngân hàng vẫn cấp phát đủ quỹ tiền lương theo mức thực hiện kế hoạch.
Trường hợp xí nghiệp không hoàn thành kế hoạch do những nguyên nhân khách quan không thể khắc phục được thì ngân hàng cùng cơ quan chủ quản xem xét, giải quyết thoả đáng quỹ tiền lương cho xí nghiệp.
Trường hợp xí nghiệp đã đăng ký số lao động dôi thừa thường xuyên nhưng chưa giải quyết được ngay theo kế hoạch thì cơ quan chủ quản của xí nghiệp phải xin Nhà nước nguồn vốn cấp phát riêng, để ngân hàng có căn cứ cấp phát.
Hàng tháng, ngân hàng cấp phát quỹ lương theo mức thực hiện kế hoạch. Cả năm, ngân hàng cấp phát quỹ lương quyết toán theo mức thực hiện kế hoạch năm được quyết toán. Nếu quyết toán thực hiện kế hoạch sản xuất, kinh doanh, xây dựng cơ bản thấp hơn mức kế hoạch thì số tiền lương đã cấp phát dôi thừa phải được thu hồi lại từ lợi nhuận để lại cho xí nghiệp.
Ngân hàng có trách nhiệm tham gia xét duyệt và công nhận xí nghiệp hoàn thành kế hoạch sản xuất, kinh doanh, xây dựng cơ bản.
Ngân hàng phải kiểm tra chặt chẽ việc sử dụng tiền thưởng từ quỹ tiền lương và tiền thưởng từ lợi nhuận theo đúng các quy định của Nhà nước, kịp thời phát hiện và báo cáo lên cơ quan chủ quản xử lý các trường hợp vi phạm chế độ của Nhà nước.
11. Các đơn vị có tài khoản tiền gửi tại ngân hàng bắt buộc phải thanh toán qua ngân hàng.
Các đơn vị chỉ được chi trả bằng tiền mặt, được trực tiếp mang tiền mặt từ địa phương này sang địa phương khác để chi trả trong phạm vi mức quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Nghiêm cấm việc ứng trước và nhận ứng trước tiền hoặc hàng (trừ những trường hợp được Nhà nước cho phép) , việc đòi giá thanh toán bằng chuyển khoản cao hơn giá thanh toán bằng tiền mặt.
Các xí nghiệp quốc doanh, các cơ quan Nhà nước, các ngành, các địa phương không được tự huy động vốn trong cán bộ, công nhân, viên chức và nhân dân để sản xuất , kinh doanh, trừ số tiền mà nhân dân tự nguyện đóng góp để cùng Nhà nước xây dựng các công trình phúc lợi công cộng.
Các hợp tác xã cần ra sức huy động vốn của xã viên (bằng tiền, bằng hiện vật, bằng công lao động) để mở rộng sản xuất, kinh doanh, giảm bớt nhu cầu vay vốn của Nhà nước.
Phải phát triển các hợp tác xã tín dụng ở nông thôn miền Nam, củng cố các hợp tác xã tín dụng ở miền Bắc, để làm trợ thủ cho Ngân hàng Nhà nước trong công tác quản lý tiền tệ và mở rộng tín dụng ở nông thôn.
Đồng chí tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước quy định chức năng, nhiệm vụ, quy chế hoạt động của hợp tác xã tín dụng và chế độ đãi ngộ đối với cán bộ hợp tác xã tín dụng theo chính sách chung của Nhà nước đối với cán bộ chủ chốt ở xã .
Nghiêm cấm tư nhân kinh doanh tiền tệ, cho vay lấy lãi. Chính quyền địa phương có trách nhiệm tăng cường quản lý thị trường tiền tệ và xử lý các hoạt động của tư nhân cho vay lãi nặng theo pháp lệnh trừng trị tội đầu cơ.
13. Ngân hàng Nhà nước quản lý thu chi quỹ ngân sách Nhà nước:
- Phải đôn đốc theo dõi và thông báo cho cơ quan tài chính biết tình hình các đơn vị chấp hành việc nộp ngân sách theo kế hoạch. Gặp trường hợp tài khoản của đơn vị không đủ tiền, ngân hàng thực hiện thanh toán theo thứ tự ưu tiên như sau: trước hết thanh toán tiền lương, rồi đến các khoản nộp ngân sách, kế đó mới thanh toán các khoản nợ khách hàng và nợ ngân hàng.
- Thực hiện cấp phát các khoản chi ngân sách theo lệnh chi và hạn mức kinh phí được duyệt của cơ quan tài chính trong phạm vi mức tồn quỹ hiện có của ngân sách. Trường hợp quỹ ngân sách không đủ tiền hoặc hết tiền, ngân hàng thông báo ngay cho cơ quan tài chính biết để có biện pháp xử lý.
Ngân hàng Nhà nước cần cải tiến tổ chức , cải tiến nghiệp vụ, huỷ bỏ những thủ tục gò bó không cần thiết; chú trọng bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nhân viên ngân hàng về chính trị, nghiệp vụ đi đôi với áp dụng các hình thức trả lương khoán, tiền thưởng để đề cao trách nhiệm, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng của đội ngũ cán bộ, nhân viên ngân hàng. Nếu phục vụ khách hàng không tốt, gây thiệt hại cho khách hàng thì ngân hàng phải chịu phạt tương ứng với mức phạt áp dụng đối với các đơn vị, theo các điều đã quy định ở trên. Trong trường hợp hai bên không nhất trí về việc xử phạt thì báo cáo trọng tài kinh tế xử lý .
Đồng chí Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc thi hành Quyết định này.
|
Tố Hữu (Đã ký) |
Quyết định 172-HĐBT năm 1982 về tiền tệ, tín dụng thanh toán trong thời gian trước mắt do Hội đồng Bộ trưởng ban hành
Số hiệu: | 172-HĐBT |
---|---|
Loại văn bản: | Quyết định |
Nơi ban hành: | Hội đồng Bộ trưởng |
Người ký: | Tố Hữu |
Ngày ban hành: | 09/10/1982 |
Ngày hiệu lực: | Đã biết |
Tình trạng: | Đã biết |
Văn bản đang xem
Quyết định 172-HĐBT năm 1982 về tiền tệ, tín dụng thanh toán trong thời gian trước mắt do Hội đồng Bộ trưởng ban hành
Chưa có Video