Bộ lọc tìm kiếm

Tải văn bản

Lưu trữ Góp ý

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • Tiếng anh
  • Lược đồ

ỦY BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 111/BC-UBND

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 7 năm 2014

 

BÁO CÁO

KẾT QUẢ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH TRIỂN KHAI CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐỘNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ GIAI ĐOẠN 2007 - 2013 VÀ KẾ HOẠCH CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐỘNG GIAI ĐOẠN 2014 - 2015

Thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ ban hành kèm Nghị quyết số 16/2007/NQ-CP ngày 27 tháng 02 năm 2007 và Nghị quyết 02-NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố, Ủy ban nhân dân thành phố đã ban hành Quyết định số 66/2007/QĐ-UBND ngày 02 tháng 5 năm 2007 về Kế hoạch triển khai Chương trình hành động Hội nhập kinh tế quốc tế của thành phố giai đoạn 2007-2010. Ủy ban nhân dân thành phố đã rà soát đánh giá kết quả thực hiện giai đoạn 2007-2011 tại Báo cáo số 178/BC-UBND ngày 28 tháng 11 năm 2012 và tiếp tục tiến hành sơ kết Chương trình hành động giai đoạn 2007-2013; đồng thời, xây dựng kế hoạch thực hiện Chương trình hành động giai đoạn 2014-2015, để tiếp tục thực hiện chủ trương hội nhập toàn diện của Đảng bộ và chính quyền thành phố, hỗ trợ thực hiện thắng lợi Kế hoạch kinh tế - xã hội trong thời gian tới.

Phần I

KẾT QUẢ THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐỘNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ GIAI ĐOẠN 2007 - 2013

I. Kết quả đạt được:

1. Công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến kiến thức về WTO và lộ trình thực hiện các cam kết của nước ta khi gia nhập WTO

Các hoạt động thông tin tuyên truyền, phổ biến kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế được triển khai khá mạnh trong thời gian qua, góp phần nâng cao hiểu biết và nhận thức của doanh nghiệp, cán bộ, công chức về WTO và hội nhập kinh tế quốc tế.

Từ năm 2007 đến nay, các cơ quan báo đài đã tích cực thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền về WTO và hội nhập kinh tế quốc tế với các chương trình truyền hình và phát thanh như “Trên đường hội nhập”, “Hội nhập và phát triển” được thực hiện định kỳ, các bài viết thông tin và phân tích chuyên sâu về những vấn đề nảy sinh trong quá trình gia nhập WTO và hội nhập kinh tế quốc tế, giúp doanh nghiệp, cán bộ quản lý và người dân nắm được tình hình hội nhập. Công tác thông tin cũng được thực hiện thông qua các trang web của sở ngành chức năng. Đặc biệt, Trung tâm WTO thành phố với trang web và Thư viện điện tử về hội nhập kinh tế quốc tế (ở địa chỉ http://www.hoinhap.org.vn) thường xuyên cung cấp thông tin, tài liệu về WTO và hội nhập kinh tế quốc tế cho các đối tượng có nhu cầu.

Thường trực Ban Chỉ đạo hội nhập kinh tế quốc tế thành phố cùng các Sở ngành phối hợp với các ngành Trung ương, các dự án quốc tế tổ chức nhiều buổi hội thảo chuyên đề và các lớp bồi dưỡng kiến thức về các cam kết và lộ trình thực hiện các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO và các Hiệp định thương mại tự do khác, các hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT), thông tin thị trường… cho hơn 27.000 lượt đối tượng là các cán bộ, công chức, doanh nghiệp nhằm tạo cơ hội nắm bắt và tận dụng ưu đãi từ các Hiệp định thương mại mà Việt Nam đã ký kết. Trung tâm WTO đã tổ chức 01 khóa tập huấn chuyên sâu kéo dài trong 03 tuần dành cho cán bộ Sở ngành làm công tác hội nhập của Thành phố và các tỉnh trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Các hội thảo, tập huấn đã thu hút được sự quan tâm của cộng đồng doanh nghiệp và các nhà khoa học, cán bộ quản lý nhà nước và được các phương tiện truyền thông đại chúng tập trung phản ánh.

2. Về đẩy mạnh chương trình hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh của Thành phố, doanh nghiệp và sản phẩm

2.1- Về triển khai chương trình hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Ủy ban nhân dân thành phố đã chủ động triển khai nhiều chương trình hỗ trợ trong các lĩnh vực như hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ hiện đại, mở rộng nhà xưởng sản xuất, thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp; thực hiện quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp, đặc biệt là bốn ngành công nghiệp trọng yếu; thực hiện chính sách, chương trình hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu, thương mại điện tử, phát triển hệ thống phân phối… nhằm tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận được khách hàng và đẩy mạnh quá trình giao thương; chương trình bình ổn thị trường ngày càng phát huy hiệu quả, số lượng doanh nghiệp và khối lượng hàng hóa tham gia chương trình ngày càng nhiều nhưng số vốn vay không lãi ngày càng giảm…

Nội bộ các ngành kinh tế cũng đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ có giá trị gia tăng cao, hàm lượng khoa học - kỹ thuật cao; từng bước chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, lấy chất lượng tăng trưởng là động lực chủ yếu để phát triển các ngành, lĩnh vực trên cơ sở áp dụng những thành tựu mới về khoa học, công nghệ, ít gây ô nhiễm môi trường, nguồn nhân lực chất lượng cao; phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sinh thái.

2.2- Về nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trên địa bàn

Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm là vấn đề cốt lõi để hội nhập kinh tế thành công. Thành phố tiếp tục triển khai thực hiện Quyết định số 33/2011/QĐ-UBND và 38/2013/QĐ-UBND về thực hiện các dự án đầu tư thuộc Chương trình kích cầu, khuyến khích các nhà đầu tư trong nước thực hiện đầu tư trong lĩnh vực, ngành nghề công - nông nghiệp trọng yếu mà thành phố đang ưu tiên khuyến khích, đặc biệt là lĩnh vực giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường. Từ năm 2007, Thành phố đã thành lập Quỹ Bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa để bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay vốn của các tổ chức tín dụng, phát triển sản xuất kinh doanh; thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất phục vụ 05, lĩnh vực ưu tiên... Từ năm 2013, thực hiện Nghị quyết 02 của Chính phủ và cơ chế chính sách về tiền tệ tín dụng của Ngân hàng Nhà nước, Thành phố còn triển khai chương trình kết nối Ngân hàng - Doanh nghiệp nhằm giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn với lãi suất thấp, bình ổn để duy trì, phục hồi sản xuất kinh doanh và giúp các ngân hàng khơi thông nguồn vốn. Một số hoạt động hỗ trợ khác của thành phố nhằm nâng cao hàm lượng khoa học kỹ thuật của sản phẩm, hỗ trợ nghiên cứu - triển khai (R&D), tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, có sức cạnh tranh lớn trên thương trường.

Bên cạnh đó, Thành phố chủ động xây dựng các chương trình hỗ trợ, thiết thực cho doanh nghiệp, phù hợp với yêu cầu tình hình mới như hỗ trợ thông tin, tiếp thị, xây dựng thương hiệu, tư vấn pháp lý, tư vấn sở hữu trí tuệ… Tiêu biểu là chương trình hỗ trợ xây dựng thương hiệu và chương trình hợp chuẩn của Sở Khoa học công nghệ phối hợp Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư thành phố (ITPC) thực hiện; các lớp tập huấn về các công cụ phân tích thị trường nhằm khai thác dữ liệu thương mại toàn cầu, phục vụ công tác xuất nhập khẩu hay các lớp tập huấn sử dụng Hệ thống cảnh báo sớm các vụ kiện chống bán phá giá giúp các doanh nghiệp xác định sớm các nguy cơ bị điều tra áp dụng các biện pháp chống bán phá giá đối với hàng xuất khẩu do Trung tâm WTO thành phố phối hợp với Cục Quản lý cạnh tranh, Trung tâm Thương mại quốc tế (ITC) thực hiện.

Tuy nhiên, cần có sự quan tâm nhiều hơn nữa trong việc nâng cao năng lực của các Hiệp hội doanh nghiệp/ngành nghề và tổ chức tư vấn, chuyển dần các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp trực tiếp từ chính quyền qua các đơn vị này nhằm nâng cao hiệu quả đối với doanh nghiệp và phù hợp với các quy định của WTO mà Việt Nam cam kết.

3. Về tăng cường công tác xúc tiến đầu tư, thương mại, du lịch nhằm thu hút đầu tư và phát triển các thành phần kinh tế

3.1- Công tác xúc tiến đầu tư, thương mại, du lịch

Trong những năm qua, Thành phố đã tổ chức thực hiện nhiều hoạt động xúc tiến đầu tư tại chỗ và ở nước ngoài; đón tiếp và cung cấp thông tin cho các đoàn khách đầu tư đến từ nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới với mục đích tìm hiểu về môi trường, cơ hội hợp tác kinh doanh và đầu tư trong các lĩnh vực thương mại, công nghiệp phụ trợ, công nghệ thông tin, chế biến thực phẩm, thủ tục đầu tư kinh doanh, v.v.

Các hội thảo xúc tiến thương mại và đầu tư được tổ chức theo chuyên đề, ngành và thị trường xuất khẩu, tiềm năng thu hút sự quan tâm, tham dự của nhiều doanh nghiệp; qua đó, góp phần hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thông tin thị trường và tìm kiếm cơ hội hợp tác sản xuất - kinh doanh. Cổng thông tin điện tử Thương mại và Đầu tư (MIS) thường xuyên cập nhật thông tin dành cho khách mua hàng, nhà đầu tư nước ngoài và cổng dành cho nhà xuất khẩu; cập nhật các báo cáo về thị trường, tin tức về hoạt động xúc tiến của Thành phố và các văn bản pháp luật mới ban hành.1 Bên cạnh đó, Hệ thống “Đối thoại Doanh nghiệp - Chính quyền thành phố” tiếp tục được vận hành nhằm thông tin kịp thời các chủ trương, chính sách của Nhà nước đến doanh nghiệp và tháo gỡ các vướng mắc, khó khăn của doanh nghiệp và trong khuôn khổ hoạt động của Hệ thống, các buổi đối thoại trực tiếp đã được tổ chức ở cấp Thành phố và trên từng địa bàn quận, huyện.2

Hàng năm, Thành phố tổ chức nhiều hoạt động xúc tiến thương mại nhằm kết nối doanh nghiệp, thúc đẩy tạo lập mối liên kết trong hoạt động đầu tư, kinh doanh và hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm cơ hội mở rộng thị trường trong và ngoài nước. Các phiên chợ, hội chợ hàng Việt được các đơn vị như Sở Công Thương, Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư, Hiệp hội Doanh nghiệp Thành phố, các đơn vị có chức năng v.v. tổ chức thường xuyên, tạo điều kiện quảng bá hàng Việt Nam và phục vụ nhu cầu mua sắm của người tiêu dùng, nhất là tại vùng sâu, vùng xa, quận - huyện vùng ven, khu chế xuất, khu công nghiệp. Các hoạt động kết nối doanh nghiệp với thị trường tiêu thụ không dừng lại trên địa bàn Thành phố. Thông qua Chương trình Hợp tác thương mại với các tỉnh, thành Đông - Tây Nam bộ; Thành phố và các tỉnh, thành bạn thu được kết quả thiết thực trong xúc tiến hình thành các liên kết tạo nguồn hàng, phát triển hệ thống phân phối và chuỗi cung ứng hàng hóa sản xuất trong nước. Về các hoạt động xúc tiến xuất khẩu, bên cạnh việc tổ chức các hội thảo và đoàn khảo sát đến các thị trường xuất khẩu trọng điểm, tiềm năng, Thành phố đã tổ chức các sự kiện, hội chợ triển lãm tại các thị trường gần như Lào, Campuchia và Myanmar nhằm quảng bá, xúc tiến tiêu thụ hàng Việt Nam và kết nối doanh nghiệp Việt Nam nói chung, doanh nghiệp Thành phố nói riêng với doanh nghiệp nước sở tại để thiết lập mối quan hệ hợp tác sản xuất - kinh doanh lâu dài. Các hoạt động xúc tiến đã góp phần thúc đẩy thị trường xuất khẩu của Thành phố phát triển theo hướng đa dạng hoá.3 Phát triển hệ thống phân phối bán buôn, bán lẻ đã góp phần nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao cả về số lượng lẫn chủng loại, chất lượng hàng hóa và dịch vụ tiện ích.4

Về du lịch: thành phố xác định du lịch là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp hiệu quả cho nền kinh tế thành phố và cả nước. Vì vậy, nhiều năm qua Thành phố đã triển khai xây dựng chiến lược phát triển thương hiệu du lịch thành phố; nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với hoạt động du lịch và đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo môi trường thuận lợi đầu tư phát triển du lịch; nâng cao chất lượng dịch vụ, xây dựng sản phẩm mới với chất lượng đạt chuẩn; gắn du lịch với thương mại, hội nghị, khám chữa bệnh; tạo sản phẩm du lịch lợi thế cạnh tranh; phát triển du lịch đường thủy; khai thác hiệu quả mô hình du lịch sinh thái vườn ở các quận vùng ven; tổ chức tốt các chương trình sự kiện lễ hội văn hóa nhằm kích cầu du lịch nội địa; tập trung đào tạo nguồn nhân lực chất lượng phục vụ phát triển du lịch; xây dựng môi trường du lịch an toàn, thân thiện, văn minh. Quy hoạch, phát triển các trung tâm mua sắm, trung tâm văn hóa và biểu diễn nghệ thuật phục vụ du khách và người dân thành phố; đầu tư cơ sở hạ tầng, tăng cường khuyến khích vận động các thành phần kinh tế tham gia phát triển du lịch; liên kết với các tỉnh, thành trong cả nước xây dựng và phát triển chương trình du lịch đạt chuẩn quốc tế, đến nay Thành phố đã ký hợp hợp tác phát triển du lịch đa phương và song phương với 30 tỉnh thành trong cả nước.

Công tác quảng bá xúc tiến du lịch và hợp tác quốc tế của thành phố được chú trọng, Thành phố tổ chức thành công chuỗi các sự kiện du lịch mang tính định kỳ như: Lễ đón khách đầu năm mới, Lễ hội đường hoa Nguyễn Huệ, Ngày hội Du lịch, Lễ hội Trái cây Nam bộ, Liên hoan ẩm thực Món ngon các nước…, đặc biệt là sự kiện Hội chợ du lịch quốc tế Thành phố Hồ Chí Minh (ITE HCMC), đây là Hội chợ du lịch chuyên nghiệp, đầu tiên và duy nhất của Việt Nam do ngành du lịch thành phố Hồ Chí Minh đứng ra tổ chức, bắt đầu từ năm 2005 và được chính thức công nhận là sự kiện du lịch quốc gia từ năm 2009. Từ năm 2005, với sự hợp tác chặt chẽ giữa 2 nước láng giềng Campuchia-Lào, Hội chợ quốc tế du lịch thành phố Hồ Chí Minh đã trở thành một thương hiệu không chỉ của Việt Nam mà còn là của 3 nước Campuchia-Lào-Việt Nam. Đến năm 2013, Hội chợ du lịch quốc tế Thành phố Hồ Chí Minh đã trở thành một thương hiệu của 05 quốc gia: Campuchia-Lào-Myanmar-Thái Lan- Việt Nam. Mục đích của Hội chợ du lịch quốc tế Thành phố Hồ Chí Minh không chỉ là tăng cường hợp tác phát triển du lịch của 05 quốc gia nhằm khai thác tiềm năng, phát triển các thế mạnh sản phẩm du lịch của mỗi nước cũng như quảng bá giới thiệu điểm đến Việt Nam với các thị trường quốc tế trọng điểm, mà còn tạo cơ hội cho các doanh nghiệp du lịch trong khu vực, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ có điều kiện tiếp cận, trao đổi, hợp tác kinh doanh với các đối tác nước ngoài đến từ các thị trường khách trọng điểm và tiềm năng của khu vực. Với những nỗ lực trên, thành phố tiếp tục khẳng định vị thế là một trong những trung tâm du lịch hàng đầu của cả nước, đóng góp tích cực cho sự phát tiển du lịch thành phố và cả nước.

3.2- Về phát triển thành phần kinh tế và nâng cao hiệu quả đầu tư

Công tác sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước và các biện pháp hỗ trợ kinh tế tập thể, doanh nghiệp nhỏ và vừa đã góp phần thúc đẩy các thành phần kinh tế chuyển dịch theo đúng định hướng, trong đó thành phần kinh tế ngoài nhà nước và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển mạnh và đóng góp ngày càng cao về tăng trưởng kinh tế của thành phố. Về thu hút vốn FDI, trên địa bàn Thành phố có 4.795 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư là 32,61 tỷ đô-la Mỹ, đứng đầu cả nước về tổng vốn đầu tư, thể hiện sự tin tưởng của các nhà đầu tư đối với môi trường đầu tư của thành phố.

Doanh nghiệp trong nước tích cực hơn trong việc nâng cao năng lực, mở rộng mạng lưới phân phối, củng cố mối quan hệ với các nhà sản xuất - cung cấp; đồng thời, sự xuất hiện của các doanh nghiệp phân phối nước ngoài vừa tạo áp lực vừa góp phần thúc đẩy thị trường nội địa phát triển đa dạng và tiếp cận được trình độ hiện đại của thế giới. Mặt khác, Thành phố cũng quan tâm kiểm soát theo quy định pháp luật đối với việc mở rộng mạng lưới của các doanh nghiệp phân phối nước ngoài thông qua công cụ Kiểm tra Nhu cầu Kinh tế (ENT), đảm bảo theo đúng quy hoạch phân phối của Thành phố và không ảnh hưởng đến giao thông đô thị.

4. Phát triển nguồn nhân lực của Thành phố

Nhận thức được yếu tố con người đóng vai trò quyết định trong công tác hội nhập kinh tế quốc tế, Thành phố đã thực hiện Chương trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của TP.HCM giai đoạn 2011-2015 theo Quyết định số 22/2011/QĐ-UBND ngày 14 tháng 5 năm 2011 với 05 chương trình nhánh, trong đó, chú trọng công tác đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức, tạo nhân lực chất lượng cao đối với ngành, lĩnh vực trọng yếu đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ phát triển bền vững và phù hợp với sự chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế thành phố.

Từ năm 2007 đến nay, Thành phố đã tổ chức đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị, quản lý nhà nước, chuyên môn, nghiệp vụ và ngoại ngữ, tin học cho trên 45.000 lượt cán bộ, công chức, viên chức; đã cử khoảng 1.300 lượt cán bộ, công chức, viên chức đi đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ tại các nước. Chương trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ trẻ của Thành phố đã tuyển chọn được 517 ứng viên, trong đó đã tổ chức và cử đi đào tạo 20 tiến sĩ và 430 thạc sĩ với nhiều phương thức khác nhau. Chương trình 100 thạc sỹ, tiến sỹ ngành công nghệ sinh học đã tuyển chọn được 33 trường hợp và cử đi đào tạo, bồi dưỡng cho 01 sau tiến sĩ, 13 tiến sĩ và 19 thạc sĩ. Thành phố đã thực hiện Chương trình hỗ trợ đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, Chương trình thí điểm liên kết đào tạo công nhân kỹ thuật lành nghề, Chương trình phát triển nguồn nhân lực nghề cho các ngành công nghiệp trọng yếu năm 2010 - 2015, Chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho công nhân, người lao động tại các doanh nghiệp, tầm nhìn đến năm 2025 … nhằm phát triển nguồn nhân lực có trình độ, có tay nghề, đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế.

5. Xây dựng và triển khai chương trình phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị

Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn gắn với ba chương trình - Chương trình giảm ùn tắc giao thông, Chương trình giảm ngập nước và Chương trình giảm ô nhiễm môi trường - là một trong 03 khâu đột phá trong giai đoạn 2011 - 2015, đã tạo điều kiện thúc đẩy giao thương, phát triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần người dân và thu hút doanh nghiệp đầu tư.

6. Đẩy mạnh cải cách hành chính, kiện toàn tổ chức bộ máy Nhà nước

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ IX về Chương trình cải cách hành chính gắn với mục tiêu xây dựng mô hình chính quyền đô thị giai đoạn 2011 - 2015, Thành phố tiếp tục triển khai chương trình tổng thể cải cách hành chính trên các lĩnh vực: cải cách thể chế, cải cách thủ tục hành chính, cải cách tổ chức bộ máy và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức, cải cách tài chính công, hiện đại hóa nền hành chính. Sự tích cực và chủ động trong công tác cải cách hành chính, triển khai nhiều đề án và mô hình mới của Thành phố như Chương trình hoàn thiện và nâng cao hiệu quả công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật giai đoạn 2011 - 2015, ứng dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2008, áp dụng dịch vụ công cấp 4 trực tuyến để cấp phép… đã góp phần cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh. Cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” với quy trình được hướng dẫn chi tiết và niêm yết công khai, tiếp tục được triển khai đồng bộ, trong đó chú trọng nâng cao chất lượng thực hiện để giải quyết tốt công việc của tổ chức và công dân.

7. Về việc điều chỉnh, bãi bỏ các văn bản quy phạm pháp luật không phù hợp với các cam kết gia nhập WTO

Việc rà soát các chính sách và chương trình hỗ trợ doanh nghiệp phù hợp với quy định của WTO được các Sở ngành thực hiện sớm ngay sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Sở Tư pháp đã tổ chức rà soát toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân thành phố ban hành từ năm 2005-2009 và các văn bản quy phạm pháp luật do địa phương ban hành còn hiệu lực, trong đó có 198 văn bản liên quan đến WTO và 192 văn bản liên quan đến ASEAN; qua đó, cũng đã đề xuất bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành các văn bản thay thế. Đồng thời, Sở Tư pháp còn thực hiện công tác góp ý, thẩm định văn bản quy phạm pháp luật trước khi Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thành phố ban hành, bảo đảm văn bản không trái quy định của WTO và các cam kết khác.

8. Về việc giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội, môi trường, văn hóa phát sinh trong quá trình hội nhập

Về vấn đề môi trường, đã phối hợp với các địa phương thực hiện Đề án bảo vệ môi trường lưu vực hệ thống sông Đồng Nai trên địa bàn TP.HCM giai đoạn 2011-2015; Chương trình giảm ô nhiễm môi trường giai đoạn 2011-2015; tiếp tục quan trắc và giám sát chất lượng không khí và môi trường nước. Ngoài ra, tổ chức và triển khai nhiều chương trình truyền thông nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng về bảo vệ môi trường như chiến dịch “Làm cho thế giới sạch hơn”, “Ngày hội tái chế”, cuộc vận động “Toàn dân tham gia bảo vệ môi trường”... Thành phố đã xây dựng và triển khai Kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu trên địa bàn.

Sở Lao động-Thương binh & Xã hội đã tham mưu cho Thành phố trong việc xây dựng các chính sách, kế hoạch và tập trung thực hiện các giải pháp trợ giúp, chăm lo cho hộ nghèo, hộ cận nghèo như đào tạo nghề, giải quyết việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp, giải quyết vấn đề lao động mất việc làm, xây dựng hệ thống an sinh xã hội đối với các nhóm dân cư, nhất là nông dân, công nhân và người lao động trong bối cảnh hội nhập…

Về văn hóa, bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa dân tộc, phát huy vai trò nền tảng và động lực tinh thần của văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội, trong thời gian qua, các cơ quan chức năng đã phát hiện và xử lý nhiều vụ vi phạm về văn hóa phẩm xuất - nhập khẩu với những nội dung phản động, sai trái.

9. Về nghiên cứu các tác động của hội nhập kinh tế quốc tế làm cơ sở cho các đề xuất về chính sách hội nhập

Để làm cơ sở tham mưu các chính sách liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế, Thành phố đã giao Viện Nghiên cứu phát triển và các sở ngành triển khai 09 chuyên đề nghiên cứu nhằm đánh giá tác động của việc gia nhập WTO trên địa bàn Thành phố về kinh tế - xã hội và một số ngành/lĩnh vực quan trọng. Một số đề tài về hội nhập kinh tế như rà soát chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, quản lý bán lẻ, ACFTA,… được triển khai. Đồng thời, dưới sự tài trợ của các dự án quốc tế, Trung tâm WTO thành phố cũng đã tổ chức thực hiện các báo cáo nghiên cứu chuyên sâu về các lĩnh vực xuất nhập khẩu, vấn đề kinh tế nổi bật, vấn đề bất bình đẳng về thu nhập, đặc biệt là đánh giá năng lực cạnh tranh của cụm ngành dệt may trên địa bàn Thành phố… Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, Viện Nghiên cứu phát triển, Trung tâm WTO đề xuất tham mưu Ủy ban nhân dân thành phố về chính sách phát triển của các lĩnh vực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Trung tâm WTO thành phố cũng phối hợp với Ủy ban Quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế khảo sát và đánh giá năng lực hội nhập kinh tế quốc tế của thành phố trong năm 2010 và 2012. Theo đánh giá của cơ quan chuyên trách về hội nhập, thành phố Hồ Chí Minh thuộc nhóm các địa phương có năng lực hội nhập kinh tế quốc tế tốt, đứng đầu cả nước về tổng hợp năng lực hội nhập qua 2 lần đánh giá.

10. Về đảm bảo an ninh, quốc phòng trong quá trình hội nhập

 Công an thành phố đã chủ động điều chỉnh phương thức hoạt động trong cho phù hợp với tình hình mới, thực hiện có hiệu quả công tác nắm tình hình, đấu tranh, đối sách với các hệ loại đối tượng; ký kết chương trình phối hợp với Công an 08 tỉnh giáp ranh trong khu vực, Bộ Tư lệnh thành phố, Bộ đội Biên phòng thành phố, Sở Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy và các đơn vị, ban, ngành trọng điểm của Thành phố trong công tác đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn, từng bước xây dựng thế trận an ninh nhân dân ngày càng vững chắc. Tăng cường đấu tranh chống các loại tội phạm, trong đó có nhiều loại tội phạm mới như tội phạm về môi trường, công nghệ cao, lừa đảo qua mạng; kịp thới phát hiện, ngăn chặn có hiệu quả âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều kiện để kinh tế xã hội phát triển bền vững; đấu tranh có hiệu quả “diễn biến hòa bình” gây bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; nâng cao chất lượng xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ…

II. Nhận xét, đánh giá chung

1. Những mặt tích cực:

Nội dung Kế hoạch hành động tại Quyết định số 66/2007/QĐ-UBND đã bám sát Chương trình hành động của Chính phủ theo Nghị quyết số 16/NQ-CP, bao trùm hầu hết các mặt đời sống kinh tế - xã hội, phản ánh tác động sâu rộng của hội nhập kinh tế quốc tế. Trong đó, Kế hoạch hành động đã cố gắng thể hiện ở một mức độ nhất định những nhiệm vụ mang tính đặc thù của Thành phố. Về cơ bản, các Sở ngành đã triển khai thực hiện khá đầy đủ các hoạt động trong 11 nhóm nhiệm vụ trong Kế hoạch hành động. Một số hoạt động thành chương trình riêng, nhưng nhiều hoạt động khác được triển khai lồng ghép, phối hợp với các nhiệm vụ thường xuyên của Sở ngành, cho thấy hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành nền tảng các hoạt động kinh tế phát triển của Thành phố.

Một số nhóm nhiệm vụ được chú trọng triển khai tích cực trong giai đoạn đầu như thông tin, tuyên truyền phổ biến kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế; xúc tiến thương mại và đầu tư; hỗ trợ nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp; đào tạo nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ…. đồng thời vẫn cần được tiếp tục thực hiện trong giai đoạn tới. Các hoạt động tích cực về chương trình hành động hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian qua đã nâng cao nhận thức của cán bộ, doanh nhân, người dân về diễn biến hội nhập kinh tế; góp phần cải thiện môi trường đầu tư trên địa bàn Thành phố, từng bước nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế.

2. Một số tồn tại và nguyên nhân:

Trước hết, Kế hoạch hành động về hội nhập kinh tế quốc tế của Thành phố triển khai trong bối cảnh kinh tế Thành phố nói riêng và Việt Nam nói chung chịu ảnh hưởng của tình hình suy thoái kinh tế thế giới từ 2008-2009 và tác động kéo dài đến nay. Sau khi gia nhập WTO, nhiều hoạt động điều hành kinh tế của Thành phố tập trung tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp. Bên cạnh yếu tố khách quan, vẫn còn một số vấn đề tồn tại trong quá trình xây dựng và triển khai thực hiện chương trình hành động về hội nhập kinh tế quốc tế.

Thứ nhất, việc thực hiện công tác hội nhập kinh tế quốc tế tại các địa phương nhìn chung còn lúng túng, đặc biệt việc xử lý các vấn đề nhạy cảm như: mở cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài trong một số lĩnh vực dịch vụ quan trọng, hỗ trợ doanh nghiệp, sử dụng hiệu quả biện pháp để bảo vệ người tiêu dùng trong nước,… Một số hướng dẫn của Trung ương chưa đủ cụ thể và kịp thời, nhất là trong giai đoạn chuyển biến hội nhập rất nhanh sau khi Việt Nam gia nhập WTO với nhiều vấn đề mới phát sinh, một số hiệp định thương mại tự do (FTA) đã và đang đàm phán, ký kết. Địa phương rất cần sự hướng dẫn nhất quán và nhanh chóng từ các Bộ ngành Trung ương, kể cả về hội nhập toàn diện.

Thứ hai, nhu cầu tham vấn chuyên sâu về vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế từ phía các doanh nghiệp và các đơn vị ngày càng tăng về số lượng và chất lượng. Trong khi đó, nguồn lực bố trí để thực hiện chương trình hội nhập kinh tế còn hạn chế cả về nhân lực lẫn tài chính. Việc triển khai nhiệm vụ chưa đều tại các đơn vị, cơ chế giám sát thực hiện các nhiệm vụ đặt ra chưa thật chặt chẽ. Việc phối hợp với các tỉnh thành trong Vùng kinh tế trọng điểm hầu như chưa tính đến trong triển khai thực hiện chương trình hành động.

Thứ ba, chưa chủ động trong việc đánh giá và có giải pháp hạn chế các tác động tiêu cực của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là trong lĩnh vực lao động, việc làm, văn hóa - xã hội, bảo vệ môi trường, bảo vệ sản xuất và người tiêu dùng trong nước.

Phần II

NHIỆM VỤ TRIỂN KHAI CỦA CHƯƠNG TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ TRONG GIAI ĐOẠN TIẾP THEO

I. Bối cảnh và tình hình trong giai đoạn tới

1. Bối cảnh kinh tế quốc tế và chủ trương của Đảng, Nhà nước ta

Tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam tiếp tục diễn ra mạnh mẽ với hàng loạt các hiệp định thương mại tự do giữa các nước và khu vực đang được đàm phán và ký kết, với nội dung ngày càng sâu rộng, mở ra nhiều cơ hội mới trong phát triển thương mại quốc tế và đầu tư, nhưng đồng thời cũng phải đối diện với nhiều thách thức.

Khối ASEAN mà Việt Nam tích cực tham gia, đang hướng tới mục tiêu cuối cùng là hình thành Cộng đồng ASEAN và Thị trường chung ASEAN vào năm 2015, dỡ bỏ tất cả rào cản phi thuế quan ở ASEAN-4 (Campuchia, Lào, Myanmar, Việt Nam). Các cam kết theo Hiệp định Thương mại tự do với các nước ngoài khối (còn gọi là ASEAN+) đẩy mạnh, đặc biệt, cam kết kết hoàn thành lộ trình giảm thuế quan xuống 0% (đối với 90% danh mục hàng hóa) ở ASEAN-4 vào năm 2015 trong Hiệp định Thương mại tự do giữa ASEAN-Trung Quốc (ACFTA) cần được lưu ý.

Việt Nam còn tích cực tham gia đàm phán các Hiệp định thương mại tự do quan trọng khác như Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP - hay ASEAN+10), Liên minh Thuế quan Nga - Belarus - Kazakhstan, với Khối thương mại tự do Châu Âu (EFTA) và với Hàn Quốc… với nhiều nội dung cam kết mới và sâu rộng, sẽ tác động mạnh mẽ đến doanh nghiệp nói riêng và kinh tế xã hội nói chung.

Trước tình hình mới, Đảng và Chính phủ đã có nhiều chủ trương chính sách đúng đắn, với tầm nhìn ngày càng sâu rộng và chủ động hơn. Bộ Chính trị đã thông qua Nghị quyết 22-NQ/TW ngày 10 tháng 4 năm 2013 về hội nhập quốc tế, trong đó xác định nội dung về hội nhập kinh tế quốc tế vẫn là trọng tâm. Về công tác hội nhập kinh tế quốc tế, ngày 02 tháng 4 năm 2013, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 58-KL/TW sơ kết 05 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa X) về một số chủ trương một số chủ trương chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của WTO, trong đó yêu cầu rà soát, cập nhập và tổ chức thực hiện chương trình hành động nhằm tiếp tục thực hiện Nghị quyết, bảo đảm phối hợp hài hòa và đồng bộ với chiến lược hội nhập quốc tế. Hiện nay, Bộ Ngoại giao đang xây dựng và triển khai thực hiện Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 22 và Bộ Công Thương đang tiến hành rà soát, cập nhật để xây dựng Chương trình hành động về hội nhập kinh tế quốc tế của Chính phủ phù hợp với giai đoạn mới.

Trước đó, ngày 09 tháng 8 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số 1051/QĐ-TTg về phê duyệt Chiến lược tham gia các thỏa thuận thương mại tự do (FTA) đến năm 2020, Ủy ban nhân dân Thành phố đã có Công văn số 5379/UBND-TM ngày 20 tháng 10 năm 2012 triển khai Chiến lược tham gia các thỏa thuận thương mại tự do (FTA) đến năm 2020 với các nội dung liên quan.

2. Bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố

Thành phố đang triển khai thực hiện Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội đến năm 2020, tầm nhìn đến 2025 và tăng tốc thực hiện Kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2015; đẩy mạnh thực hiện thành công 06 chương trình đột phá của thành phố theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ IX, trên cơ sở tận dụng các cơ hội, vượt qua các thách thức trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả các đề án, chương trình hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đồng thời nghiên cứu bổ sung cơ chế chính sách để triển khai thực hiện Chương trình hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2011-2015.

Các bối cảnh kinh tế nêu trên cần được xem xét để định hướng các nhiệm vụ về hội nhập kinh tế quốc tế cho Thành phố Hồ Chí Minh thích hợp trong thời gian tới. Trong đó, chú trọng các biện pháp cụ thể với hiệu quả thiết thực.

II. Nhiệm vụ triển khai tiếp theo của Chương trình hành động về hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn 2014 - 2015

Từ bối cảnh nêu trên, Ủy ban nhân dân thành phố xác định có 07 nhóm nhiệm vụ chính trong Chương trình hành động về hội nhập kinh tế quốc tế của thành phố giai đoạn 2014-2015 như sau:

1. Nâng cao năng lực đội ngũ triển khai, theo dõi công tác hội nhập quốc tế và thực thi các Hiệp định quốc tế mà Việt Nam đã cam kết

- Kiện toàn, củng cố tổ chức Ban Chỉ đạo Hội nhập kinh tế quốc tế phù hợp với tình hình mới; thiết lập cơ chế tăng cường phối hợp trong công tác hội nhập quốc tế giữa thành phố Hồ Chí Minh với các bộ ngành và địa phương trong Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam.

- Tổ chức các lớp bồi dưỡng kiến thức chuyên sâu về các cam kết khi Việt Nam gia nhập WTO, các thể chế quốc tế khác và các kỹ năng cần thiết cho cán bộ công chức làm công tác hội nhập.

- Chủ động và nhanh chóng xử lý, hướng dẫn doanh nghiệp trong giải quyết các vụ việc liên quan đến hội nhập quốc tế. Định kỳ rà soát, đánh giá kết quả thực hiện Chương trình hành động và điều chỉnh, xử lý các vấn đề phát sinh.

- Thực hiện báo cáo đánh giá định kỳ tác động của việc gia nhập WTO và các thể chế kinh tế quốc tế khác đến một số lĩnh vực kinh tế-xã hội quan trọng của thành phố; đề xuất các giải pháp tận dụng các cơ hội và dự báo, ứng phó với các tác động tiêu cực.

2. Đẩy mạnh công tác xây dựng pháp luật và hoàn thiện thể chế

- Thường xuyên rà soát, kiểm tra và kịp thời đề xuất bãi bỏ hoặc sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân Thành phố ban hành đảm bảo tuân thủ các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia. Chủ động, tích cực tham gia xây dựng và tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng trong nước.

- Nghiên cứu và đề xuất xây dựng các biện pháp phi thuế quan nhằm ngăn chặn hàng nhập khẩu kém chất lượng, bảo vệ người tiêu dùng và nhà sản xuất trong nước.

- Nghiên cứu và triển khai về giải quyết tranh chấp đầu tư nước ngoài khi các cơ quan Nhà nước tại Thành phố là một bên trong tranh chấp.

3. Nâng cao chất lượng công tác thông tin, tuyên truyền về hội nhập quốc tế

- Xây dựng và triển khai các nội dung truyền thông về hội nhập quốc tế; thông tin kịp thời về các cam kết gia nhập WTO, cam kết trong các Hiệp định thương mại tự do và các hiệp định hợp tác mà Việt Nam tham gia nhằm khai thác lợi ích từ kết quả đàm phán.

- Tiến hành biên soạn cẩm nang, tài liệu về hội nhập theo từng chủ để thích hợp để phát hành cho các doanh nghiệp trong từng ngành nghề.

- Chủ động tổ chức lấy ý kiến doanh nghiệp và đối tác trong việc tham gia đàm phán các Hiệp định và các thể chế kinh tế; phổ biến nội dung kết quả đàm phán và các việc cần làm.

- Phối hợp với các bộ ngành trong việc cung cấp kịp thời các thông tin cảnh báo sớm cho các doanh nghiệp và thực thi các cam kết của Việt Nam.

4. Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và doanh nghiệp, tăng cường công tác xúc tiến quảng bá, đầu tư, thương mại và du lịch

- Chuyển đổi mô hình tăng trưởng hay chuyển dịch cơ cấu kinh tế đi vào chiều sâu nhằm khai thác tốt tiềm năng và lợi thế của Thành phố để phát triển kinh tế theo hướng hiệu quả và bền vững. Thí điểm nghiên cứu phát triển các cụm ngành quan trọng đã hình thành trên địa bàn Thành phố theo hướng hiện đại, cạnh tranh và có giá trị gia tăng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới.

- Tiếp tục triển khai thực hiện các chương trình nhằm thúc đẩy phát triển thị trường hàng hóa trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu. Triển khai có hiệu quả các chương trình xúc tiến xuất khẩu và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu. Đẩy mạnh phát triển hệ thống phân phối bán buôn, bán lẻ trên địa bàn.

- Tăng cường quảng bá hình ảnh, cơ hội đầu tư, thu hút du lịch, phát triển thương mại và thu hút cư dân chất lượng cao, nhằm phát huy lợi thế và vai trò của Thành phố.

- Cải thiện môi trường đầu tư và môi trường kinh doanh thông qua cải thiện các chỉ số đánh giá. Đẩy mạnh thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia nắm công nghệ nguồn, công nghệ cao, khuyến khích đầu tư vào các ngành nghề, các lĩnh vực then chốt góp phần thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố.

- Hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận công nghệ tiên tiến, tăng cường nghiên cứu triển khai (R&D); hỗ trợ thông tin thị trường nước ngoài, rào cản thương mại quốc tế… Hỗ trợ xây dựng nhãn chứng nhận hàng hóa, dịch vụ cho các doanh nghiệp trong nhóm sản phẩm công nghiệp ưu tiên phát triển, kể cả các ngành dịch vụ. Hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa xây dựng thương hiệu sản phẩm và doanh nghiệp.

5. Nâng cao năng lực và tăng cường sự tham gia của các tổ chức tư vấn, hỗ trợ và Hiệp hội ngành nghề trong hội nhập quốc tế

- Đẩy mạnh các chương trình tập huấn, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, kỹ năng quản lý, xây dựng chính sách và pháp luật quốc tế cho các cán bộ công chức, viên chức Thành phố. Tập trung đào tạo ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh, cho cán bộ công chức và viên chức nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế.

- Có kế hoạch bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ và kiến thức chuyên sâu về hội nhập kinh tế quốc tế cho đội ngũ luật sư, luật gia, thẩm phán, trọng tài kinh tế để hỗ trợ, tư vấn cho doanh nghiệp và giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế và các tranh chấp quốc tế khác.

- Xây dựng đề án nâng cao năng lực và vai trò của Hiệp hội doanh nghiệp thành phố, Hội ngành nghề và các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp khác để tăng cường khả năng hỗ trợ trong quá trình thực hiện các cam kết về hội nhập quốc tế. Các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp cần chuyển cho các Hiệp hội làm đầu mối thực hiện hoặc phối hợp chặt chẽ với các Hiệp hội trong quá trình thực hiện.

6. Chủ động giải quyết các vấn đề về môi trường, văn hóa và xã hội để đảm bảo phát triển bền vững trong quá trình hội nhập quốc tế

6.1- Các nhiệm vụ về xã hội

- Đánh giá vấn đề bất bình đẳng thu nhập trong quá trình hội nhập, từ đó đề xuất các giải pháp để mọi tầng lớp đều được hưởng lợi từ quá trình mở cửa và hội nhập; đánh giá và củng cố các chương trình/mạng lưới an sinh xã hội, chú trọng quyền lợi của các nhóm dễ bị tổn thương

- Nghiên cứu chính sách hỗ trợ dạy nghề, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn và/hoặc chuyển đổi nghề nghiệp, giúp người lao động thích nghi với sự thay đổi về môi trường lao động trong hội nhập và giúp doanh nghiệp tăng tính cạnh tranh; nghiên cứu thị trường cung cầu lao động của thành phố để phát triển nguồn nhân lực và lao động phù hợp.

6.2- Các nhiệm vụ về văn hóa

- Tăng cường phát triển các hoạt động giao lưu văn hóa thường xuyên giữa Thành phố với địa phương kết nghĩa của các nước.

- Xây dựng cơ chế huy động các nguồn lực nhằm giữ gìn, tôn tạo, phát huy và khai thác hiệu quả các giá trị/di sản văn hóa vật thể và phi vật thể nhằm tạo nền tảng về đời sống văn hóa tinh thần của người dân trong điều kiện hội nhập, đồng thời khẳng định bản sắc văn hóa thành phố nhằm thu hút và phát triển du lịch.

- Tăng cường công tác kiểm soát và ngăn chặn nhập khẩu trái phép các vật phẩm và dịch vụ văn hóa không lành mạnh.

6.3- Các nhiệm vụ về hạ tầng đô thị và môi trường

- Phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế và dân sinh trong điều kiện hội nhập quốc tế; triển khai hiệu quả các chương trình giảm ùn tắc giao thông, chương trình giảm ngập nước gắn với các giải pháp ứng phó đồng bộ với tình trạng biến đổi khí hậu.

- Xây dựng các tiêu chuẩn kiểm soát chặt chẽ về môi trường và hạn chế các dự án có khả năng gây ô nhiễm môi trường và/hoặc thâm dụng lao động.

7. Đảm bảo ổn định về an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội

- Có phương án đảm bảo an ninh chính trị, an ninh tư tưởng, an ninh thông tin, an ninh kinh tế - xã hội. Đẩy mạnh phòng chống tội phạm có tổ chức, các hành vi gây rối trật tự an toàn xã hội. Bên cạnh vấn đề an ninh truyền thống, tập trung nắm bắt và xử lý các vấn đề an ninh phi truyền thống ngày càng gia tăng như buôn lậu, ma túy, buôn bán phụ nữ và trẻ em, khủng bố, rửa tiền, tội phạm kinh tế quốc tế và tội phạm công nghệ cao.

- Tăng cường xử lý các vấn đề an ninh trật tự do việc cư trú bất hợp pháp của người nước ngoài. Củng cố lực lượng bảo vệ du khách tại các khu trung tâm để đảm bảo an ninh và trật tự cho khách du lịch nước ngoài.

III. Kiến nghị với các cơ quan Trung ương:

1. Trung ương cần sớm ban hành Chương trình hành động và kế hoạch triển khai về hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn tiếp theo, trong đó xác định rõ mục tiêu và các bước đi hội nhập thích hợp trong từng giai đoạn.

2. Thông tin hội nhập kinh tế quốc tế cần đảm bảo thông suốt từ khâu chuẩn bị đàm phán đến kết quả đàm phán và triển khai thực thi, để địa phương, doanh nghiệp nắm bắt rõ ràng các cơ hội và thách thức trong lộ trình mở cửa. Có cơ chế hỗ trợ để doanh nghiệp, Hiệp hội tích cực tham gia đóng góp ngay từ khâu đàm phán. để phổ biến cho từng nhóm đối tượng theo từng lĩnh vực, ngành nghề.

3. Cần có cơ chế điều phối đủ mạnh để phối hợp công tác hội nhập
kinh tế quốc tế từ Trung ương đến địa phương và giữa các địa phương trong Vùng và tổ chức đào tạo bài bản để nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ hội nhập kinh tế quốc tế các cấp, đặc biệt là tại các địa phương trong cả nước./.

 


Nơi nhận:
- Bộ Công Thương; Ủy ban Quốc gia về HTKTQT;
- Bộ Tài chính; Bộ Kế hoạch và Đầu tư;
- Thường trực Thành ủy;
- Thường trực HĐND thành phố;
- TTUB: CT, các PCT;
- Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố;
- Viện Nghiên cứu phát triển; Trung tâm WTO;
- Sở ban ngành thành phố;
- Ủy ban nhân dân các quận - huyện;
- Đài Truyền hình TP;
- Đài Tiếng nói nhân dân TP;
- VPUB: CPVP; Phòng: TCTMDV, THKH;
- Lưu: VT, (TM/Tr) MH

KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH




Nguyễn Thị Hồng

 



1 Đến cuối năm 2013, Cổng thông tin điện tử Thương mại và Đầu tư  (MIS) trên 4.300 thành viên đăng ký sử dụng thường xuyên; đạt khoảng 1,9 triệu lượt truy cập từ 195 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.

2 Đến cuối năm 2013, Hệ thống có 42 đơn vị thành viên là các sở - ban - ngành, quận - huyện và hơn 3.000 doanh nghiệp thành viên.

3 Đến cuối năm 2013, hàng hoá xuất khẩu từ Thành phố đã đến 230 quốc gia và vùng lãnh thổ.

4 Đến cuối năm 2013, Thành phố có 30 trung tâm thương mại, 184 siêu thị, 475 cửa hàng tiện lợi và 243 chợ (trong đó có 3 chợ đầu mối nông sản thực phẩm).

Nội dung văn bản đang được cập nhật

Báo cáo 111/BC-UBND năm 2014 về kết quả thực hiện kế hoạch triển khai Chương trình hành động Hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn 2007-2013 và kế hoạch Chương trình hành động giai đoạn 2014-2015 do thành phố Hồ Chí Minh ban hành

Số hiệu: 111/BC-UBND
Loại văn bản: Báo cáo
Nơi ban hành: Thành phố Hồ Chí Minh
Người ký: Nguyễn Thị Hồng
Ngày ban hành: 10/07/2014
Ngày hiệu lực: Đã biết
Tình trạng: Đã biết
Văn bản được hướng dẫn - [0]
Văn bản được hợp nhất - [0]
Văn bản bị sửa đổi bổ sung - [0]
Văn bản bị đính chính - [0]
Văn bản bị thay thế - [0]
Văn bản được dẫn chiếu - [8]
Văn bản được căn cứ - [0]
Văn bản liên quan ngôn ngữ - [0]

Văn bản đang xem

Báo cáo 111/BC-UBND năm 2014 về kết quả thực hiện kế hoạch triển khai Chương trình hành động Hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn 2007-2013 và kế hoạch Chương trình hành động giai đoạn 2014-2015 do thành phố Hồ Chí Minh ban hành

Văn bản liên quan cùng nội dung - [3]
Văn bản hướng dẫn - [0]
Văn bản hợp nhất - [0]
Văn bản sửa đổi bổ sung - [0]
Văn bản đính chính - [0]
Văn bản thay thế - [0]
Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Tài khoản để biết được tình trạng hiệu lực, tình trạng đã bị sửa đổi, bổ sung, thay thế, đính chính hay đã được hướng dẫn chưa của văn bản và thêm nhiều tiện ích khác
Loading…