BỘ
TÀI CHÍNH |
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 88/2002/TT-BTC |
Hà Nội, ngày 02 tháng 10 năm 2002 |
Căn cứ Pháp lệnh phí và lệ
phí số 38/2001/PL-UBTVQH ngày 28 tháng 8 năm 2001 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
và Nghị định số 57/2002/NĐ-CP ngày 3 tháng 6 năm 2002 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành Pháp lệnh phí và lệ phí;
Căn cứ Quyết định số 45/2002/QĐ-TTg ngày 27/3/2002 của Thủ tướng Chính phủ về
việc quy định nội dung quản lý nhà nước và cơ quan quản lý nhà nước về mã số mã
vạch;
Sau khi có ý kiến của Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài chính quy định chế độ
thu, nộp và quản lý sử dụng phí cấp mã số mã vạch như sau:
I. ĐỐI TƯỢNG THU VÀ MỨC THU
2. Mức thu phí cấp mã số mã vạch được quy định cụ thể như sau:
- Phí cấp và hướng dẫn sử dụng mã số, mã vạch: 1.000.000đồng/1 lần (một triệu đồng/1 lần).
- Phí duy trì sử dụng mã số, mã vạch: 500.000đồng/1 năm (năm trăm ngàn đồng/1 năm).
II- TỔ CHỨC THU, NỘP VÀ QUẢN LÝ SỬ DỤNG
1. Phí cấp mã số, mã vạch là khoản thu thuộc ngân sách nhà nước.
2. Cơ quan quản lý nhà nước về mã số mã vạch hoặc cơ quan được uỷ quyền thu phí cấp mã số mã vạch (Sau đây gọi là cơ quan thu phí) có trách nhiệm:
a) Tổ chức thu, nộp phí cấp mã số mã vạch theo đúng quy định tại Thông tư này. Thông báo (hoặc niêm yết công khai) mức thu phí cấp mã số mã vạch tại trụ sở cơ quan thu phí. Khi thu tiền phí phải cấp biên lai thu phí cho người nộp tiền (loại biên lai do Bộ Tài chính phát hành).
b) Mở sổ kế toán theo dõi số thu, nộp và sử dụng tiền phí theo đúng pháp luật kế toán thống kê hiện hành.
c) Đăng ký, kê khai, nộp phí cấp mã số mã vạch theo hướng dẫn của cơ quan Thuế địa phương nơi cơ quan thu phí đóng trụ sở chính.
d) Thực hiện thanh toán, quyết toán biên lai thu phí và quyết toán thu, nộp tiền thu phí với cơ quan Thuế trực tiếp quản lý theo chế độ quản lý biên lai, ấn chỉ của Bộ Tài chính quy định.
3. Tiền thu phí cấp mã số mã vạch được quản lý sử dụng như sau:
a) Cơ quan thu phí cấp mã số mã vạch được để lại 90% (chín mươi phần trăm) trên tổng số tiền phí thực thu được trước khi nộp vào ngân sách nhà nước
b) Nộp ngân sách nhà nước phần tiền phí còn lại 10% (mười phần trăm) trên tổng số tiền phí thực thu được.
4. Cơ quan thu phí cấp mã số mã vạch được sử dụng số tiền phí để lại theo tỷ lệ (%) quy định tại tiết a, điểm 3 mục này để chi phí cho việc thu phí cấp mã số mã vạch theo nội dung chi cụ thể sau đây:
a) Chi các khoản tiền lương, tiền công, các khoản phụ cấp, các khoản đóng góp theo tiền lương, tiền công theo chế độ hiện hành cho lao động trực tiếp thu phí. Trường hợp đơn vị đã được Ngân sách nhà nước cấp kinh phí trả lương cho cán bộ công nhân viên trong biên chế thì chỉ được chi trả tiền công cho lao động thuê ngoài để thực hiện việc thu phí theo chế độ.
b) Chi phí trực tiếp phục vụ cho việc thu phí như: văn phòng phẩm, vật tư văn phòng, điện thoại, điện, nước, công tác phí, công vụ phí, thông tin, liên lạc; in (mua) tài liệu, in (mua) tờ khai, giấy phép, các loại ấn chỉ khác theo tiêu chuẩn, định mức chi hiện hành.
c) Chi hội nghị, hội thảo, tập huấn, đào tạo nghiệp vụ trong nước và quốc tế; chi tuyên truyền quảng cáo phục vụ trực tiếp thu phí.
d) Chi sửa chữa thường xuyên, sửa chữa lớn tài sản, máy móc, thiết bị trực tiếp phục vụ việc thu phí, lệ phí.
e) Chi mua sắm vật tư, nguyên liệu, thiết bị, công cụ làm việc và các khoản chi khác phục vụ việc trực tiếp thu phí theo dự toán được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
g) Chi nộp phí cho các Tổ chức Mã số mã vạch Quốc tế theo quy định.
h) Chi trích quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi cho cán bộ, nhân viên trực tiếp thu phí. Mức trích lập 2 quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi, bình quân một năm, một người tối đa không quá 3 (ba) tháng lương thực hiện nếu số thu cao hơn năm trước và bằng 2 (hai) tháng lương thực hiện nếu số thu thấp hơn hoặc bằng năm trước.
Trường hợp cơ quan quản lý nhà nước về mã số mã vạch có uỷ quyền cho các đơn vị trong mạng lưới thực hiện một phần công việc về hoạt động quản lý mã số mã vạch thì Bộ Khoa học và Công nghệ hướng dẫn mức phân phối, sử dụng đối với số tiền phí được trích để lại (90 % số tiền phí thu được nêu trên) cho đơn vị trong mạng lưới để đảm bảo bù đẵp chi phí liên quan đến phần công việc được uỷ quyền.
Cơ quan thu phí có trách nhiệm quản lý, sử dụng số tiền phí được để lại đúng mục đích nêu trên, có chứng từ hợp pháp, hàng năm phải quyết toán thu chi theo thực tế. Sau khi quyết toán đúng chế độ, số tiền phí được trích để lại chưa chi hết trong năm được phép chuyển sang năm sau để tiếp tục chi theo chế độ quy định.
5. Thủ tục kê khai, nộp ngân sách nhà nước số tiền phí cấp mã số mã vạch quy định như sau:
- Trong thời hạn chậm nhất là 10 ngày trước khi bắt đầu thu phí, cơ quan thu phí phải đăng ký với Cục thuế địa phương về loại phí, địa điểm thu, chứng từ thu và tổ chức thu phí.
- Cơ quan thu phí phải mở tài khoản "tạm giữ tiền thu phí " tại Kho bạc nhà nước nơi thu để theo dõi và quản lý số tiền phí thu được. Định kỳ hàng tuần, cơ quan thu phí phải gửi số tiền phí đã thu được vào tài khoản tạm giữ và phải hạch toán riêng khoản thu này theo chế độ kế toán đơn vị hành chính sự nghiệp hiện hành.
- Định kỳ mỗi tháng một lần vào trước ngày 5 của tháng tiếp theo, cơ quan thu phí thực hiện kê khai và nộp tờ khai cho cơ quan Thuế trực tiếp quản lý về số tiền phí cấp mã số mã vạch đã thu được; số tiền phí được để lại; số tiền phí phải nộp ngân sách của tháng trước.
- Trên cơ sở kê khai, cơ quan thu phí thực hiện nộp số tiền phí phải nộp vào ngân sách nhà nước. Thời hạn nộp tiền vào ngân sách nhà nước của tháng trước, chậm nhất không quá ngày 15 của tháng tiếp theo (nộp theo chương, loại, khoản, hạng, mục tương ứng của mục lục ngân sách nhà nước hiện hành) tại Kho bạc nhà nước nơi cơ quan thu phí đóng trụ sở chính. Số tiền phí cấp mã số mã vạch nộp vào ngân sách nhà nước được phân chia toàn bộ cho ngân sách Trung ương.
- Nhận được tờ khai phí của cơ quan thu phí gửi đến, cơ quan Thuế thực hiện kiểm tra tờ khai, đối chiếu với số chứng từ thu đã phát hành, số chứng từ đã sử dụng để xác định số tiền phí đã thu, số tiền để lại, số tiền phải nộp ngân sách nhà nước trong kỳ và thông báo cho cơ quan thu phí về số tiền phải nộp ngân sách nhà nước.
- Cơ quan thu phí đối chiếu số phí phải nộp theo thông báo của cơ quan Thuế với số tiền phí đã thực nộp ngân sách nhà nước trong kỳ, nếu nộp chưa đủ thì phải nộp tiếp số còn thiếu vào ngân sách nhà nước, nếu đã nộp thừa thì được trừ vào số tiền phải nộp ngân sách của kỳ tiếp sau.
6. Lập và chấp hành dự toán thu - chi tiền phí:
a) Hàng năm, căn cứ mức thu phí cấp mã số mã vạch, nội dung chi hướng dẫn tại thông tư này và chế độ chi tiêu tài chính hiện hành, cơ quan thu phí cấp mã số mã vạch lập dự toán thu - chi tiền phí chi tiết theo mục lục ngân sách nhà nước hiện hành và gửi cơ quan chủ quản xét duyệt, tổng hợp gửi cơ quan Tài chính đồng cấp có thẩm quyền phê duyệt.
b) Căn cứ vào dự toán thu - chi năm đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, cơ quan thu phí cấp mã số mã vạch lập dự toán thu, chi hàng quý, chi tiết theo mục lục ngân sách nhà nước hiện hành, gửi cơ quan chủ quản, Kho bạc nhà nước nơi giao dịch, cơ quan Tài chính, cơ quan Thuế đồng cấp để làm căn cứ kiểm soát thu - chi.
7. Quyết toán thu - chi tiền phí:
b) Cơ quan thuế thực hiện quyết toán số thu theo biên lai, tổng số thu, số được để lại, số phải nộp ngân sách nhà nước. Cơ quan tài chính, cơ quan thuế quyết toán số chi từ nguồn thu phí mà số mã vạch được để lại đơn vị theo quy định tại điểm 4 mục II Thông tư này.
c) Cơ quan chủ quản cấp trên có trách nhiệm kiểm tra, xác nhận quyết toán thu - chi phí cấp mã số mã vạch của cơ quan thu phí trực thuộc và tổng hợp vào báo cáo quyết toán năm gửi cơ quan Tài chính thẩm định, ra thông báo duyệt quyết toán cùng với quyết toán năm của cơ quan chủ quản theo quy định của Luật ngân sách nhà nước hiện hành.
III- TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Thông tư này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày kể từ ngày ký.Các văn bản quy định về thu phí cấp mã số mã vạch trái với quy định tại Thông tư này đều bãi bỏ.
2. Các cơ quan quản lý nhà nước được giao nhiệm vụ cấp, duy trì, hướng dẫn sử dụng mã số mã vạch và cơ quan được uỷ quyền thực hiện thu, nộp và sử dụng phí cấp mã số mã vạch theo quy định tại Thông tư này.
3. Trong quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc đề nghị các cơ quan, tổ chức, cá nhân phản ảnh kịp thời về Bộ Tài chính để nghiên cứu hướng dẫn bổ sung.
|
Trương Chí Trung (Đã ký) |
THE MINISTRY OF FINANCE |
SOCIALIST REPUBLIC OF VIET NAM |
No: 88/2002/TT-BTC |
Hanoi, October 02, 2002 |
CIRCULAR
PRESCRIBING THE REGIME OF COLLECTION,
REMITTANCE AND MANAGEMENT OF USE OF NUMERAL CODE AND BAR CODE-GRANTING CHARGE
Pursuant to the National Assembly Standing
Committee’s Charge and Fee
Ordinance No.38/2001/PL-UBTVQH of August 28, 2001 and the Government’s Decree No. 57/2002/ND-CP of June 3, 2002
detailing the implementation of the Charge and Fee Ordinance;
Pursuant to the Prime Minister’s
Decision No.45/2002/QD-TTg of March 27, 2002 stipulating the contents of and
agencies performing the State management over numeral codes and bar codes;
After getting opinions of the Ministry of Science and Technology, the
Ministry of Finance hereby prescribes the regime of collection, remittance and
management of use of numeral code and bar code-granting charge, as follows:
I. CHARGE
PAYERS AND LEVELS
1. Vietnamese and foreign enterprises and organizations, when being granted by the agencies in charge of State management over numeral codes and bar codes or their authorized agencies the licenses to use numeral codes and bar codes, provided with use instructions and use maintenance of numeral codes and bar codes, shall have to pay the numeral code and bar code-granting charge according to the provisions of this Circular.
2. The numeral code and bar code-granting charge levels are specified as follows:
- Charge for numeral code and bar code granting and use instructions: VND 1,000,000/granting (VND one million/granting).
- Charge for numeral code and bar code use maintenance: VND 500,000/year (VND five hundred thousand/year).
...
...
...
1. Numeral code and bar code-granting charge constitutes a State budget revenue.
2. The agencies performing the State management over numeral codes and bar codes or agencies authorized to collect the numeral code and bar code-granting charge (hereinafter referred collectively to as the charge-collecting agencies) shall have to:
a/ Organize the collection and remittance of the numeral code and bar code-granting charge strictly according to the provisions of this Circular. Notify (or publicly post up) the numeral code and bar code-granting charge levels at their headquarters. When collecting the charge, they shall have to supply charge collection receipts to charge payers (receipts issued by the Finance Ministry).
b/ Open accounting books to monitor the collected, remitted and used charge amounts in strict compliance with the current accounting and statistic legislation.
c/ Register, declare and remit the numeral code and bar code-granting charge under the guidance of tax offices of localities where they are headquartered.
d/ Effect the liquidation and settlement of charge collection receipts and settlement of collected and remitted charge amounts with their direct managing tax offices according to the regime of management of receipts and seals prescribed by the Finance Ministry.
3. The collected numeral code and bar code-granting charge amounts shall be managed and used as follows:
a/ The charge-collecting agencies shall be entitled to retain 90% (ninety per cent) of the total actually collected charge amount before remitting them into the State budget.
b/ They shall then remit into the State budget the remainder of 10% (ten per cent) of the total actually collected charge amount.
...
...
...
a/ Payment of salaries, remunerations, allowances, salary- or remuneration-based contributions according to the current regime for employees personally engaged in the charge collection. In cases where the units have already been allocated by the State budget funding for payment of wages to their officials and employees on the payrolls, they shall only be entitled to pay remunerations to laborers hired from outside to conduct the charge collection according to the regime.
b/ Expenses in direct service of charge collection, such as those for stationery, office supplies, telephone, power and water charges, working trip allowance, public mission allowance, communications and information, printing (purchase) of documents, printing (purchase) of declaration forms, licenses and other kinds of prints according to the current spending norms and limits.
c/ Expenses for conferences, workshops, professional training courses at home and abroad; expenses for propagation and advertisement in direct service of charge collection.
d/ Expenses for regular repairs or overhauls of assets, machinery and equipment in direct service of charge and fee collection.
e/ Expenses for the procurement of supplies, raw materials, equipment and working tools as well as other expenses in direct service of charge collection according to estimates approved by the competent authorities.
f/ Expenses for the payment of charges to the International Numeral Code and Bar Code Organizations as prescribed.
g/ Expenses being deductions for setting up reward fund and welfare fund for officials and employees personally engaged in charge collection. The annual average per-head deduction level for setting up these two funds shall not exceed 3 (three) months’ actually paid salaries, if the collected amount in the year is larger than that in the preceding year, or 2 (two) months’ actually paid salaries, if the collected amount in the year is smaller than or equal to that in the preceding year.
In cases where an agency performing the State management over numeral codes and bar codes authorizes units in its network to partly perform the work of managing numeral codes and bar codes, the Ministry of Science and Technology shall guide the levels of distribution and use of retained charge amount (90% of the above-said collected charge amount) for the units in the network to cover expenses related to their authorized work.
The charge-collecting agencies shall have to manage and use the retained charge amounts for the above-mentioned purposes with lawful vouchers and make annual revenue-expenditure settlements according to actual amounts. After making settlements strictly according to the regime, the retained charge amount not used up in the year shall be carried forward to the following year for further spending according to the prescribed regime.
...
...
...
- Within 10 days before starting the charge collection, the charge-collecting agencies shall have to register with the local tax departments types of charge to be collected, places of collection, collection vouchers and organization of charge collection.
- The charge-collecting agencies shall have to open "collected charge custody accounts" at the State Treasury’s branches in localities where charge is collected for monitoring and managing the collected charge amounts. Weekly, they shall have to remit the collected charge amounts into such custody accounts and separately account such revenue amounts according to the current accounting regime applicable to administrative and non-business units.
- Once every month before the 5th day of the following month, the charge-collecting agencies shall make and submit declarations to the direct managing tax offices on the collected numeral code and bar code-granting charge amounts, retained amounts and amounts to be remitted into the State budget of the current month.
- Basing themselves on the declarations, the charge-collecting agencies shall remit the remittable charge amounts into the State budget. The time limit for remitting a month�s charge amount into the State budget shall be the 15th day of the following month (according to the corresponding chapter, type, clause, class and item of the current State budget index), at the State Treasury’s branches in localities where such charge-collecting agencies are headquartered. The numeral code and bar code-granting charge amounts remitted into the State budget shall be wholly distributed to the central budget.
- Upon receiving charge declarations from the charge-collecting agencies, the tax offices shall examine such declarations, compare them with the already issued collection vouchers and already used vouchers for the purpose of determining the collected charge amounts, retained amounts and amounts remittable into the State budget in the period, and notify the charge-collecting agencies of amounts to be remitted into the State budget.
- The charge-collecting agencies shall compare charge amounts to be remitted according to tax offices’ notices with the amounts actually remitted into the State budget in the period. In case of under-remittance, the deficit shall be fully remitted into the State budget; in case of over-remittance, the over-remitted amount shall be cleared against the remittable amount of the following period.
6. Drafting and complying with charge revenue-expenditure estimates:
a/ Annually, basing themselves on the numeral code and bar code-granting charge levels, spending contents guided in this Circular and the current financial spending regime, the numeral code and bar code-granting charge-collecting agencies shall draft detailed charge revenue-expenditure estimates according to the current State budget index and send them to their superior agencies for approval and summing up before submission thereof to the competent finance agencies of the same level for approval.
b/ Basing themselves on annual revenue-expenditure estimates already approved by the competent authorities, the numeral code and bar code-granting charge-collecting agencies shall draft quarterly revenue-expenditure estimates, detailed according to the current State budget index, then send them to the managing agencies, the State treasury’s branches where transactions are conducted, the finance and tax offices of the same level to serve as basis for controlling revenues and expenditures.
...
...
...
a/ The numeral code and bar code-granting charge-collecting agencies shall have to open accounting books for recording, accounting and settling charge revenues and expenditures according to the Finance Minister’s Decision No.999/TC/QD/CDKT of November 2, 1996 promulgating the system of administrative and non-business accounting regimes; conduct the settlement of collection vouchers, charge amounts already collected and remitted into the State budget, and submit annual settlement reports on collected and remitted numeral code and bar code-granting charge amounts to the tax offices before the end of February of the year following the reporting year, and fully remit the deficit charge amount into the State budget within 10 days after submitting such reports.
b/ Tax offices shall conduct the settlement of collected amounts according to receipts, total collected amount and retained amount as well as amount to be remitted into the State budget. The finance offices and tax offices shall settle expenditure amounts from the numeral code and bar code charge revenue source left at the collecting units according to the provisions at Point 4, Section II of this Circular.
c/ The superior managing agencies shall have to inspect and certify the settlements of numeral code and bar code-granting charge revenue-expenditure of their attached charge-collecting agencies and incorporate them into annual settlement reports for submission to the finance offices for appraisal, notification of settlement approval together with annual settlements of managing agencies according to the provisions of the current State Budget Law.
III.
ORGANIZATION OF IMPLEMENTATION
1. This Circular takes effect 15 days after its signing. The documents prescribing the collection of numeral code and bar code-granting charge, which are contrary to this Circular, are hereby annulled.
2. The State management agencies assigned the tasks of granting, maintaining and instructing the use of numeral codes and bar codes and the authorized agencies shall effect the collection, remittance and use of the numeral code and bar code-granting charge according to the provisions of this Circular.
3. Any problems arising in the course of implementation should be promptly reported by the concerned agencies, organizations and individuals to the Finance Ministry for study and additional guidance.
...
...
...
;
Thông tư 88/2002/TT-BTC quy định chế độ thu, nộp và quản lý sử dụng phí cấp mã số mã vạch do Bộ Tài chính ban hành
Số hiệu: | 88/2002/TT-BTC |
---|---|
Loại văn bản: | Thông tư |
Nơi ban hành: | Bộ Tài chính |
Người ký: | Trương Chí Trung |
Ngày ban hành: | 02/10/2002 |
Ngày hiệu lực: | Đã biết |
Tình trạng: | Đã biết |
Văn bản đang xem
Thông tư 88/2002/TT-BTC quy định chế độ thu, nộp và quản lý sử dụng phí cấp mã số mã vạch do Bộ Tài chính ban hành
Chưa có Video