TÒA
ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO-VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO-BỘ TƯ PHÁP
*******
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******
|
Số:
09/TTLN
|
Hà
Nội, ngày 01 tháng 10 năm 1990
|
THÔNG TƯ LIÊN NGÀNH
HƯỚNG DẪN THI HÀNH MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LỆNH THỦ TỤC GIẢI
QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ
Để thi hành Pháp lệnh Thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự; Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn các Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp
áp dụng thống nhất một số quy định sau đây:
1. Khi Viện kiểm
sát khởi tố vụ án thì Viện kiểm sát có trách nhiệm cung cấp các tài liệu cần
thiết đối với việc giải quyết vụ án cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án.
Viện kiểm sát khởi tố vụ án không phải nộp tiền tạm ứng án phí và không phải chịu
án phí, nhưng các đương sự khác vẫn phải chịu án phí theo quy định chung.
2. Trong trường hợp
Viện kiểm sát khởi tố vụ án, nếu thấy cần thiết thì Tòa án có thể tiến hành điều
tra để thu nhập thêm chứng cứ. Tòa án có thể trao đổi với Viện kiểm sát để Viện
kiểm sát cung cấp thêm tài liệu hoặc rút quyết định khởi tố. Nếu Viện kiểm sát
không nhất trí với ý kiến của Tòa án thì tùy trường hợp Tòa án ra quyết định tạm
đình chỉ việc giải quyết vụ án, đình chỉ việc giải quyết vụ án hoặc đưa vụ án
ra xét xử.
3. Đối với những vụ
án do Viện kiểm sát khởi tố, nếu sau khi Tòa án đã thụ lý mà thấy vụ án không
thuộc thẩm quyền giải quyết của mình theo lãnh thổ, thì Tòa án trả hồ sơ vụ án
cho Viện kiểm sát đã khởi tố vụ án để Viện kiểm sát quyết định khởi tố lại theo
đúng thẩm quyền của Tòa án.
4. Đối với các vụ
án theo quy định tại khoản 2 Điều 28 và các vụ án mà Viện kiểm sát có yêu cầu
tham gia phiên tòa sơ thẩm, thì ngay sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử,
Tòa án gửi cho Viện kiểm sát quyết định đưa vụ án ra xét xử và hồ sơ vụ án để
Viện kiểm sát nghiên cứu trong thời hạn mười lăm ngày để chuẩn bị cho việc tham
gia phiên tòa. Hồ sơ vụ án cũng có thể được chuyển cho Viện kiểm sát để nghiên
cứu trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm.
5. Trong những trường
hợp bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà Viện kiểm sát
cùng cấp thấy cần nghiên cứu hồ sơ vụ án để đề nghị Viện kiểm sát cấp trên
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm hoặc Viện kiểm sát cấp trên thấy
cần xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, thì Viện kiểm sát có công văn
yêu cầu Tòa án chuyển cho Viện kiểm sát mượn hồ sơ vụ án. Tòa án chuyển cho Viện
kiểm sát mượn hồ sơ vụ án chậm nhất là hai mươi ngày kể từ ngày nhận được công
văn yêu cầu.
Nếu Viện kiểm sát cấp trên mượn hồ
sơ vụ án thì Tòa án chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp để Viện kiểm
sát cùng cấp chuyển cho Viện kiểm sát cấp trên.
Trong thời hạn ba tháng kể từ ngày
Viện kiểm sát nhận được hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát chuyển trả lại hồ sơ vụ án
cho Tòa án, nếu không có kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.
6. Mọi tài liệu có
trong hồ sơ vụ án được đánh số thứ tự và có bản kê danh mục các tài liệu. Trước
khi chuyển hồ sơ vụ án từ Tòa án sang Viện kiểm sát hoặc ngược lại, cần kiểm
tra đầy đủ tài liệu trong hồ sơ vụ án. Người nhận hồ sơ vụ án phải đối chiếu bản
kê danh mục tài liệu với tài liệu đã được đánh số thứ tự trong hồ sơ vụ án.
7. Viện kiểm sát
nghiên cứu hồ sơ vụ án đang được giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm
trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày Viện kiểm sát nhận được hồ sơ vụ án và
chuyển trả hồ sơ vụ án cho Tòa án chậm nhất là mười lăm ngày kể từ ngày nhận được
hồ sơ vụ án.
Đối với hồ sơ vụ án có kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Phó
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố, đặc
khu trực thuộc Trung ương và cấp tương đương, thì thời hạn Viện kiểm sát nghiên
cứu hồ sơ vụ án là ba tháng kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án. Viện kiểm sát
chuyển trả hồ sơ vụ án cho Tòa án chậm nhất là ba tháng kể từ ngày nhận được hồ
sơ vụ án. Đối với những vụ án có tính chất phức tạp, nếu Viện kiểm sát cần điều
tra bổ sung, thì thời hạn Viện kiểm sát nghiên cứu hồ sơ vụ án đang được giải
quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm là một tháng, theo thủ tục giám đốc thẩm,
tái thẩm là bốn tháng kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án.
8. Việc kiểm sát
việc giải quyết các vụ án dân sự có thể bắt đầu từ khi Tòa án thụ lý đơn khởi
kiện của đương sự, tổ chức xã hội hoặc quyết định khởi tố vụ án của Viện kiểm
sát.
Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án nếu thấy
cần phải điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát có thể tự mình tiến hành điều tra bổ
sung hoặc ủy thác cho Viện kiểm sát khác điều tra bổ sung, yêu cầu Tòa án điều
tra bổ sung. Viện kiểm sát có thể trao đổi trực tiếp hoặc bằng văn bản với Tòa
án về những vấn đề cần điều tra bổ sung. Tòa án có trách nhiệm kịp thời đáp ứng
yêu cầu của Viện kiểm sát về điều tra bổ sung. Trong trường hợp thấy có thể điều
tra bổ sung được tại phiên tòa thì Tòa án thông báo cho Viện kiểm sát biết.
Nếu Tòa án cần hồ sơ vụ án để điều
tra bổ sung thì Viện kiểm sát chuyển trả lại Tòa án. Việc giao nhận hồ sơ vụ án
cũng được thực hiện theo điểm 6 của Thông tư này.
9. Trong trường hợp
giữa Tòa án và Viện kiểm sát có ý kiến khác nhau về đánh giá chứng cứ, về hướng
giải quyết vụ án, thì trước khi đưa vụ án ra xét xử cần có sự trao đổi trước giữa
kiểm sát viên tham gia phiên tòa và thẩm phán được phân công xét xử vụ án và
khi cần thiết thì có thể báo cáo với lãnh đạo hai ngành để giải quyết. Nếu sau
khi trao đổi ý kiến mà vẫn chưa có sự nhất trí thì từng ngành vẫn tiến hành
công việc theo thẩm quyền của mình.
10. Viện kiểm sát
phải cử kiểm sát viên tham gia phiên tòa đối với những vụ án quy định tại khoản
2 Điều 28, khoản 1 Điều 67 Pháp lệnh hoặc những việc khác mà Viện kiểm sát thấy
cần tham gia phiên tòa. Viện kiểm sát cần thông báo họ, tên kiểm sát viên sẽ
tham gia phiên tòa để Tòa án thông báo cho những người tham gia tố tụng khác biết.
Nếu sau đó Viện kiểm sát thay đổi kiểm sát viên thì cần thông báo việc thay đổi
này cho Tòa án biết.
Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa nếu
vắng mặt kiểm sát viên trong các trường hợp Viện kiểm sát khởi tố vụ án, kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm hoặc kiểm sát viên bị thay
đổi mà không có kiểm sát viên thay thế ngay.
11. Trong quá
trình điều tra, chuẩn bị xét xử, nếu Tòa án hoặc Viện kiểm sát thấy cần thiết
phải thay đổi hoặc nhận được đơn yêu cầu thay đổi thẩm phán, hội thẩm nhân dân,
thư ký Tòa án, kiểm sát viên, người giám định, người phiên dịch thì tùy trường
hợp cụ thể Tòa án và Viện kiểm sát trao đổi với nhau để xem xét việc thay đổi
trước khi mở phiên tòa.
12. Theo quy định
tại Điều 87 thì Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự có hiệu lực thi
hành từ ngày 1-1-1990. Do đó, kể từ ngày 1-1-1990 trong việc giải quyết
và việc kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự thụ lý trước ngày 1-1-1990
nhưng chưa được giải quyết xong đều phải áp dụng các quy định của Pháp lệnh
này.
13. Việc kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với các bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật trước ngày 1-1-1990 chỉ được tiến hành trước ngày 1-1-1993,
trừ trường hợp kháng nghị theo hướng không gây thiệt hại cho bất cứ đương sự
nào.