HỘI
ĐỒNG BỘ TRƯỞNG |
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 108/CT |
Hà Nội, ngày 11 tháng 4 năm 1991 |
VỀ VIỆC SẮP XẾP LẠI SẢN XUẤT VÙNG THAN QUẢNG NINH TRONG CHIẾN LƯỢC KINH TẾ - XÃ HỘI TOÀN ĐỊA BÀN
Trong những năm qua ngành than đã có nhiều cố gắng thoả mãn nhu cầu than trong nước, nâng cao chất lượng và tăng số lượng than xuất khẩu. Các cơ sở sản xuất và kinh doanh của ngành than đã có những cố gắng nhất định, từng bước nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh trong quá trình chuyển sang cơ chế kinh tế mới. Thực hiện các chỉ thị của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về quản lý và bảo vệ than, Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Bộ Năng lượng, Công nghiệp nặng... đã có sự phối hợp chặt chẽ trong việc lập lại trật tự khai thác than và thu được một số kết quả. Tuy nhiên còn nhiều diễn biến đáng lo ngại: tình hình khai thác than bất chấp pháp luật vẫn tái diễn, có nơi, có lúc ở mức nghiêm trọng. Tiêu thụ than trong nước giảm, xuất khẩu than tăng chậm dẫn đến sản xuất than bị đình đốn gây khó khăn cho ngành than và cả môi trường xã hội trên địa bàn.
Để nâng cao hiệu quả sản xuất than, tạo điều kiện cho ngành than đóng vai trò tương xứng với khả năng của nó trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và tỉnh Quảng Ninh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng chỉ thị:
3/ Về việc lập lại trật tự trong khai thác than:
Mỏ than là tài sản quốc gia được Nhà nước giao các tổ chức kinh tế quản lý, khai thác sử dụng theo luật định. Bộ Công nghiệp nặng chủ trì, cùng Bộ Năng lượng và Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh thống nhất ra văn bản quy định rõ ranh giới của các mỏ than hiện đang được khai thác, thời hạn chậm nhất là 30-6-1991. Đơn vị (người) được giao khai thác trong phạm vi khu vực mỏ nào là chủ mỏ của phạm vi khu vực đó. Chủ mỏ có toàn quyền và phải chịu mọi trách nhiệm về trật tự trong khai thác, về bảo vệ tài nguyên và môi trường trong phạm vi khu vực mỏ được giao. Chủ mỏ có quyền sử dụng mọi biện pháp được pháp luật quy định để bảo vệ tài sản của Nhà nước và thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước theo Luật định. Các cấp chính quyền, các đơn vị quân đội, các tổ chức an ninh và các tổ chức xã hội, quần chúng khác tại địa phương có nhiệm vụ hỗ trợ, phối hợp, giúp đỡ chủ mỏ giữ gìn trật tự an ninh trong khai thác và sản xuất trên địa bàn.
Các cơ sở khai thác than quốc doanh thuộc Trung ương và địa phương đều phải được củng cố và sắp xếp lại theo Quyết định 315/HĐBT ngày 01 tháng 9 năm 1990 của Hội đồng Bộ trưởng. Những cơ sở nào được tiếp tục hoạt động, giám đốc cơ sở đó phải ký kết biên bản nhận khu vực mỏ được giao và có trách nhiệm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của một chủ mỏ theo quy định của Nhà nước. Các cơ sở khai thác than ngoài quốc doanh, các đơn vị quân đội, công an, các tổ chức đoàn thể xã hội như thanh niên, trường học... các bộ phận không có nhiệm vụ trực tiếp khai thác than (xây dựng cơ bản, cơ khí...) muốn tham gia khai thác than phải nhận thầu của các chủ mỏ và phải bán toàn bộ than khai thác được cho chủ mỏ theo giá thoả thuận ghi trong hợp đồng nhận thầu khai thác và phải tuân theo những quy định của chủ mỏ nhằm đảm bảo trật tự, an toàn khai thác và các quy định về bảo vệ tài nguyên và môi trường. Hợp dồng khai thác có thời hạn nhất định, nội dung phải nêu rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của các bên ký kết theo quy định trong Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế. Chủ mỏ có quyền giao thầu từng phần việc của quá trình khai thác mỏ hoặc giao thầu toàn bộ việc khai thác một phần mỏ trong quy hoạch khai thác chung của mỏ với điều kiện được cơ quan quản lý cấp trên đồng ý.
Bộ Năng lượng phối hợp với các ngành, địa phương có liên quan quy định điều kiện kinh tế và kỹ thuật của các đơn vị được phép nhận thầu tham gia khai thác than. Đơn vị nào không đủ trình độ về tổ chức và nghề nghiệp, không đủ trang thiết bị cần thiết, không bảo đảm được quy trình công nghệ và an toàn khai thác, không tuân thủ các quy định của Nhà nước thì không cho đăng ký hành nghề và không được ký hợp đồng nhận thầu khai thác than với các chủ mỏ.
Đối với những vùng mỏ than chưa giao cho đơn vị nào khai thác, Uỷ ban nhân dân các tỉnh có trách nhiệm bảo quản, không cho bất kỳ một lực lượng nào khai thác.
Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh và Uỷ ban nhân dân các tỉnh phải kiểm tra thường xuyên và dẹp bỏ những cảng than hoạt động trái phép.
Ban chỉ đạo Quản lý thị trường Trung ương, Uỷ ban nhân dân các tỉnh phải chỉ đạo các ngành chức năng tăng cường kiểm tra việc kinh doanh và nộp thuế kinh doanh than, phạt nặng, thậm chí đưa ra truy tố cá nhân, đơn vị mua bán than trái phép hoặc trốn thuế, lậu thuế.
|
Đỗ Mười (Đã ký)
|
Chỉ thị 108/CT năm 1991 về việc sắp xếp lại sản xuất trong vùng than Quảng Ninh trong chiến lược kinh tế - xã hội toàn địa bàn do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ban hành
Số hiệu: | 108/CT |
---|---|
Loại văn bản: | Chỉ thị |
Nơi ban hành: | Hội đồng Bộ trưởng |
Người ký: | Đỗ Mười |
Ngày ban hành: | 11/04/1991 |
Ngày hiệu lực: | Đã biết |
Tình trạng: | Đã biết |
Văn bản đang xem
Chỉ thị 108/CT năm 1991 về việc sắp xếp lại sản xuất trong vùng than Quảng Ninh trong chiến lược kinh tế - xã hội toàn địa bàn do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ban hành
Chưa có Video