SẮC LỆNH
LUẬT SỐ 102-SL/L-004 NGÀY 20-5-1957 QUY ĐỊNH QUYỀN LẬP HỘI
CHỦ TỊCH NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
RA SẮC LỆNH :
Nay ban bố luật quy định quyền lập
hội đã được Quốc hội biểu quyết trong khoá họp thứ VI như sau:
LUẬT
QUY ĐỊNH QUYỀN LẬP HỘI
Điều 1.
Quyền lập
hội của nhân dân được tôn trọng và bảo đảm. Lập hội phải có mục đích chính
đáng, phù hợp với lợi ích nhân dân, có tác dụng đoàn kết nhân dân, để góp phần
xây dựng chế độ dân chủ nhân dân của nước ta.
Điều 2.
Mọi người
đều có quyền lập hội, trừ những người mất quyền công dân hoặc đang bị truy tố
trước pháp luật.
Mọi người có quyền tự do vào hội
thành lập hợp pháp, và có quyền tự do ra hội.
Không ai được xâm phạm quyền lập
hội và quyền tự do vào hội, ra hội của người khác.
Điều 3.
Để bảo đảm
việc lập hội có mục đích chính đáng, bảo vệ và củng cố chế độ dân chủ nhân dân,
lập hội phải xin phép.
Thể lệ lập hội
sẽ do Chính phủ quy định.
Điều 4.
Những hội
đã thành lập trước ngày ban hành luật này và đã hoạt động trong vùng tạm bị chiếm
trong thời kỳ kháng chiến, nay muốn tiếp tục hoạt động, đều phải xin phép lại.
Điều 5.
Hội thành lập
hợp pháp phải hoạt động theo đúng điều lệ của hội và theo đúng các luật lệ hiện
hành, được phép thu hội phí của hội viên, mua bán đổi chác tài sản cần thiết
cho sự hoạt động của hội và thưa kiện trước toà án.
Những người
chịu trách nhiệm chính của hội, tuỳ trường hợp, là những người sáng lập hay là
những uỷ viên ban chấp hành của hội.
Điều 6.
Nếu vi phạm
những điều 3, 4 và 5 trên đây thì tuỳ theo trường hợp nặng nhẹ, những người có
trách nhiệm sẽ bị cảnh cáo hay là bị truy tố trước toà án, và hội có thể bị giải
tán, tài sản của hội có thể bị tịch thu.
Trường hợp bị truy tố trước toà
án, những người có trách nhiệm sẽ bị phạt tiền từ mười vạn đồng (100.000 đ) đến
năm mươi vạn đồng (500.000 đ) và phạt tù từ một tháng đến một năm, hoặc một
trong hai hình phạt ấy.
Trường hợp hội đã bị giải tán mà
vẫn cứ tiếp tục hoạt động hoặc tổ chức lại một cách không hợp pháp, thì những
người có trách nhiệm sẽ bị truy tố trước toà án và sẽ bị xử phạt tiền từ hai
mươi vạn đồng (200.000 đ) đến một triệu đồng (1.000.000 đ) và phạt tù từ một
tháng đến hai năm, hoặc một trong hai hình phạt ấy, hội sẽ bị giải tán, tài sản
của hội sẽ bị tịch thu.
Điều 7.
Người nào
xâm phạm đến quyền lập hội hoặc đến quyền tự do vào hội, ra hội của người khác
có thể bị cảnh cáo hoặc bị truy tố trước toà án và bị xử phạt tù từ một tháng đến
một năm.
Điều 8.
Người nào
lợi dụng quyền lập hội để hoạt động nguy hại đến lợi ích nước nhà, lợi ích nhân
dân như là chống pháp luật, chống lại chế độ, chống lại chính quyền dân chủ
nhân dân, chia rẽ dân tộc, hại đến thuần phong mỹ tục, phá hoại sự nghiệp đấu
tranh cho hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ của Tổ quốc, phá tình hữu nghị
giữa nhân dân ta với nhân dân các nước, tuyên truyền chiến tranh, sẽ bị truy tố
trước toà án và xử phạt theo luật pháp hiện hành, hội có thể bị giải tán và tài
sản của hội có thể bị tịch thu.
Điều 9.
Các đoàn
thể dân chủ và các đoàn thể nhân dân đã tham gia Mặt trận dân tộc thống nhất
trong thời kỳ kháng chiến, được Quốc hội và Chính phủ công nhận, không thuộc phạm
vi quy định của luật này.
Điều 10.
Các hội
có mục đích kinh tế không thuộc phạm vi quy định của luật này.
Điều 11.
Tất cả luật
lệ nào trái với luật này đều bãi bỏ.
Điều 12.
Chính phủ
quy định những chi tiết thi hành luật này.