BỘ
LAO ĐỘNG - BỘ THỦY LỢI VÀ ĐIỆN LỰC |
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA Độc
lập - Tự do - Hạnh phúc |
Số: 001-TT/LB |
Hà Nội, ngày 18 tháng 01 năm 1961 |
HƯỚNG DẪN THI HÀNH CHẾ ĐỘ DÂN CÔNG ĐẮP ĐÊ NĂM 1961
Nhiệm vụ đắp đê năm 1961 vào khoảng 9.500.00m3 đất.
Theo tinh thần nghị quyết của Thường vụ Hội đồng Chính phủ họp ngày 22-11-1960 và thông tư của Phủ Thủ tướng số 304-TTg ngày 05-12-1960 bổ sung thêm một số điểm về thù lao dân công trong thông tư số 023-TTg ngày 18-01-1960, thì:
- Năm 1961 Nhà nước vẫn trợ cấp 1m3 đất bình quân 0đ60 (bao gồm mọi chi phí cho 1m3 đất). Bộ Thủy lợi và Điện lực sẽ phân phối kinh phí cho các địa phương, và các địa phương nghiên cứu định giá 1m3 đất ở từng triền đê cho sát, trên nguyên tắc phải đảm bảo thu nhập cho dân công mỗi ngày từ 0đ40 trở lên.
- Các khoản chi phí về gián tiếp phí không được quá 12% tổng số kinh phí (trừ trường hợp đặc biệt chỉ cao quá 12% phải được Bộ Thủy lợi và Điện lực đồng ý).
- Người được huy động đi đắp đê năm 1961 cũng coi là đi dân công được ghi công nghĩa vụ.
- Các cấp phải nghiên cứu các biện pháp cải tiến công cụ, hợp lý hóa tổ chức lao động, nhằm nâng cao hơn nữa năng suất lao động, nâng cao thu nhập cho dân công, để các năm sau có thể hạ thấp chi phí cho công tác đê.
Căn cứ vào nhiệm vụ và chủ trương của Chính phủ về công tác dân công đắp đê năm 1961 và tình hình dân công đắp đê năm 1960, Liên bộ ra thông tư này hướng dẫn như sau:
1. Trong lúc huy động dân công phải chấp hành đúng chính sách.
Không huy động người ngoài tuổi nghĩa vụ (kể cả người đi thay, đi thuê), người tàn tật, bệnh kinh niên, đàn bà có thai, thương bệnh binh. Tuổi nghĩa vụ cần thống nhất tính theo tuổi đầy năm (không theo tuổi mụ và cũng không theo tuổi điều tra dân số).
Không huy động theo hình thức động viên dân công tự túc đi đắp đê.
Ở các thành phố (Hà nội, Hải phòng, Nam định) từ trước đến nay việc động viên nhân dân nội thành đi đắp đê chưa thành một chế độ thường xuyên, thì nay cần huy động nhân dân khu phố đi đắp đê.
Cách tổ chức huy động cần thích hợp để tránh ảnh hưởng nhiều đến công ăn việc làm của nhân dân.
2. Phải đảm bảo đầy đủ dân công đắp đê, đồng thời đảm bảo nhân công kiến thiết cơ bản và các kế hoạch sản xuất các xí nghiệp quốc doanh, công tư hợp doanh và cơ quan Nhà nước:
Ủy ban hành chính các cấp và cơ quan sử dụng lao động phải nắm vững những nguyên tắc sau đây để giải quyết cho thỏa đáng:
- Những người do Ủy ban hành chính hoặc cơ quan Lao động khu, thành, tỉnh giới thiệu đi làm ở các địa phương khác (là phù động, hợp đồng, thợ hoặc lao động thường) 1 năm trở lên đều được tạm miễn nghĩa vụ dân công đắp đê.
- Những người được Ủy ban hành chính và cơ quan Lao động khu, thành, tỉnh giới thiệu đi làm (phù động, hợp đồng) ở vùng rừng núi, khí hậu xấu, hoặc vùng khan hiếm nhân công (do Ủy ban hành chính khu, thành, tỉnh xác định) dù mới đi hay đi đã lâu đều được tạm miễn đi dân công đắp đê trong thời gian chưa về địa phương.
Trừ những người nói trên, còn những người đi làm việc khác phải có nhiệm vụ đắp đê, và nếu đi vắng thì gia đình phải cử người hay thuê người đi thay và chịu trách nhiệm về khối lượng, chất lượng công tác của người đi làm thay.
Các địa phương cần hướng dẫn giá tiền công thuê người đi thay cho thống nhất để có quan hệ tốt giữa người thuê và người đi thuê.
- Đối với Việt kiều mới về nước, nếu đi sản xuất tự túc thì được tạm miễn nghĩa vụ dân công trong thời gian 1 năm kể từ ngày bắt đầu sản xuất, nếu trong sản xuất, Việt kiều gặp nhiều khó khăn, thì Ủy ban hành chính địa phương có thể kéo dài thời hạn tạm miễn.
- Đối với xã viên hợp tác xã, tập đoàn sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp, vận tải đều có nghĩa vụ đi đắp đê và phải gương mẫu làm nhiệm vụ. Những đơn vị nào mà trong một thời gian nhất định phải gấp rút hoàn thành một kế hoạch, theo như điều kiện và thời gian hoàn thành của hợp đồng đã ký với cơ quan Nhà nước từ cấp thị xã và tỉnh trở lên, thì có thể được tạm hoãn đi đắp đê trong thời gian đó (do Ủy ban hành chính khu, thành, tỉnh quyết định).
- Đối với cán bộ, công nhân viên thuộc các xí nghiệp quốc doanh, công tư hợp doanh, các cơ quan của Nhà nước từ cấp huyện trở lên đều được miễn dân công đắp đê.
- Đối với cán bộ xã, Ủy ban hành chính xã căn cứ vào tình hình công tác của mỗi cán bộ để quyết định việc huy động, nhưng theo nguyên tắc thì cán bộ xã cũng phải đi đắp đê và tránh tạm miễn tràn lan gây ảnh hưởng không tốt. Đối với cán bộ thôn, xóm thì vấn đề miễn giảm không được đặt ra.
3. Phải dựa vào các hợp tác xã nông nghiệp để vừa huy động được dân công vừa đảm bảo sản xuất nông nghiệp:
Hiện nay phong trào hợp tác hóa nông nghiệp bậc thấp đã căn bản hoàn thành, đó là chỗ dựa tốt nhất cho công tác huy động dân công. Kinh nghiệm mùa đẻ năm 1960 nơi nào đã dựa vào hợp tác xã thì từ việc huy động cho đến sử dụng ở công trường đều đạt kết quả tốt. Vì vậy, các Ủy ban hành chính xã cần giao trách nhiệm cho hợp tác xã đảm nhiệm việc tổ chức học tập, dân chủ bàn bạc cử đủ số người đi dân công đúng chính sách, và hướng dẫn thực hiện theo lối dồn công (một người đi làm nghĩa vụ cho mình, và làm thay nghĩa vụ cho người khác) nhằm đảm bảo kế hoạch sản xuất cho hợp tác xã và đời sống gia đình xã viên, đồng thời lãnh đạo giải quyết thỏa đáng quyền lợi về công điểm, thù lao…giữa người đi dân công và người ở lại sản xuất, để hai bên đều phấn khởi làm tốt nhiệm vụ.
Đối với tổ đổi công và tập đoàn sản xuất, thì dựa vào các tổ chức ấy để làm cơ sở học tập và huy động, cũng có thể áp dụng hình thức dồn công theo biện pháp nói trên. Trường hợp các tổ chức này có ít tổ viên và một số ít người còn làm ăn riêng rẽ, thì tùy theo điều kiện thuận tiện mà ghép họ vào các hợp tác xã để tổ chức học tập và huy động.
Trước khi huy động dân công đắp đê, cần phải nắm vững tình hình sản xuất nông nghiệp, nghề thủ công, nghề phụ của từng nơi, hoặc những vùng đang gặp khó khăn do thiên tai gây nên, như một số nơi thuộc các tỉnh Nghệ an, Hà tĩnh, Quảng bình, để có kế hoạch điều động số lượng nhiều, ít, đi trước, sau, gần, xa, đợt dài, ngắn ngày, và có kế hoạch động viên tương trợ của vùng lân cận để vừa bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ đắp đê kịp thời hạn vừa bảo đảm sản xuất.
II. TỔ CHỨC HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG DÂN CÔNG
1. Tổ chức huy động:
Mỗi khi huy động dân công đi đắp đê, phải tổ chức thành đội ngũ (có thể lấy hợp tác xã để tổ chức thành đơn vị nhỏ), cử cán bộ, đảng viên, đoàn viên thanh niên lao động, y tế xã, đi theo để làm nòng cốt, lãnh đạo công việc và chăm sóc sức khỏe cho dân công. Xã và đơn vị dân công phải cử người lên trước công trường nhận phần đất phải làm, chuẩn bị chỗ ăn, ở, dụng cụ… để khi dân công lên có thể bắt tay ngay vào việc không phải chờ đợi. Khi tập trung lên đường cần động viên, kiểm điểm có người nào huy động sai chính sách và dụng cụ làm việc, nhất là dụng cụ cải tiến,dụng cụ cấp dưỡng, ….(nếu dân công từ xa đến thì phải bố trí và tổ chức ăn, ở, sinh hoạt tập trung). Nếu việc chuẩn bị còn thiếu sót thì phải giải quyết ngày tại chỗ, để tránh khó khăn cho công trường và dân công đỡ đi lại nhiều lần lấy lương thực, dụng cụ, thay đổi người…
2. Tổ chức sử dụng:
a) Chuẩn bị công trường:
Kinh nghiệm qua các mùa đê, nơi nào chuẩn bị công trường tốt, thì khi tiến hành đạt nhiều kết quả. Vì vậy, ngoài việc khảo sát thiết kế các quãng đê phải đắp, trước lúc thi công, công trường phải chuẩn bị đầy đủ các mặt, căn cứ vào thực tế, cụ thể từng triền đê mà định giá 1m3 đất để giao khoán, chuẩn bị nơi ăn, ở, sắp xếp giúp đỡ việc mua bán, tiếp tế thức ăn, thuốc men, cho dân công, và có đủ cán bộ để phục vụ công trường.
b) Động viên thi đua, cải tiến công cụ, hợp lý hóa tổ chức lao động và đẩy mạnh chế độ làm khoán:
Năng suất lao động của dân công đắp đê có được nâng cao thì mới đảm bảo kế hoạch đắp đê được nhanh, gọn, tốt, vừa đảm bảo thu nhập cho dân công và tạo điều kiện cho các năm sau có thể hạ thấp chi phí cho công tác đê.
Vì vậy trong công tác đắp đê phải đặc biệt chú trọng tìm mọi biện pháp để nâng cao năng suất lao động, trước hết phải giáo dục động viên dân công ra sức cải tiến công cụ, chú ý đến các phương tiện vận chuyển thô sơ, hợp lý hóa tổ chức lao động và thường xuyên phát động thi đua có sơ kết, tổng kết, khen thưởng kịp thời bằng nhiều hình thức.
Để cải tiến công cụ phương tiện vận chuyển, một mặt phải dựa vào quần chúng và hướng dẫn quần chúng tự làm, mặt khác dưới sự lãnh đạo của Ủy ban hành chính, các Khu, Sở, Ty Thủy lợi, công trường đê và cơ quan Lao động các địa phương có trách nhiệm nghiên cứu có kế hoạch, và chuẩn bị nguyên vật liệu, kinh phí (trong 12% gián tiếp) để thiết thực giúp đỡ cho quần chúng làm.
Đi đôi với việc cải tiến công cụ, hợp lý hóa tổ chức lao động, dân công làm việc trên công trường chủ yếu là làm khoán, cho nên giữa công trường và dân công (xã, hợp tác xã, đơn vị dân công) đều có trách nhiệm chuẩn bị mọi điều kiện để giao, nhận khoán. Lúc giao, nhận khoán cần ghi rõ khối lượng, chất lượng và thời gian phải hoàn thành nhiệm vụ công tác, tiền trợ cấp và các quyền lợi khác…, chú trọng đảm bảo kỹ thuật, đảm bảo chất lượng chống làm dối, làm ẩu cho xong khối lượng, còn công gián tiếp do nội bộ dân công bàn bạc để giảm bớt, tỷ lệ cao nhất của một C 150 dân công không quá 10 người (1 C trưởng phụ trách chung và thi đua, 2 C phó kiêm B trưởng phụ trách sinh hoạt và kỹ thuật…1 y tá và 6 cấp dưỡng).
III. SỬ DỤNG VÀ PHÂN PHỐI TIỀN TRỢ CẤP
Để sử dụng hợp lý tiền trợ cấp của Nhà nước, phân phối tận tay người dân công đi đắp đê, và đảm bảo đoàn kết trong nông thôn, các địa phương,công trường cần chú ý:
1. Trước hết phải chấp hành nghiêm chỉnh chính sách, chế độ, nguyên tắc tài chính của Đảng và Chính phủ.
Tiền trợ cấp đắp đê chỉ được dùng vào việc chi phí cho công tác đắp đê, trừ khoản chi phí được tiêu về gián tiếp phí ra thì toàn bộ kinh phí phải dùng để trả thù lao cho dân công. Người đi đắp đê được hưởng một số trợ cấp nhất định tùy theo khối lượng đất đã thực hiện, không phải bình nghị.
2. Ở Trung ương, Bộ Thủy lợi và Điện lực căn cứ vào khối lượng đê phải đắp của từng địa phương vào điều kiện đào, đắp khó, dễ của các triền đê (cao, thấp, xa, gần, dụng cụ làm đê phải mua sắm đắt tiền dân công không có sẵn, như thuyền, xà beng, cuốc chim … huy động dân công đi xa 40, 50 cây số phải đi tàu, xe…) và mức độ đời sống của nhân dân từng địa phương mà phân ra 3 mức bình quân để trợ cấp cho các địa phương:
- Loại bình thường 1m3 trợ cấp : 0đ 50
- Loại khó : 0đ 60
- Loại đặc biệt khó : 0đ 70
Ủy ban hành chính khu, thành, tỉnh sẽ căn cứ vào kinh phí được cấp vào khối lượng và điều kiện đào, đắp khó, dễ, cao, thấp, gần xa….đúng với thực tế từng vùng, từng nơi của mỗi triền đê, mà phân ra nhiều mức trợ cấp. Nơi nào dễ làm năng suất bình quân cao, thì mức trợ cấp theo thước khối sẽ ít, nơi nào khó làm, năng suất bình quân thấp, thì mức trợ cấp theo thước khối sẽ nhiều hơn, cứ như thế điều hòa cho hợp lý để đảm bảo cấp phát ít nhất 88% tổng số kinh phí vào tay dân công và phải lãnh đạo động viên tăng năng suất để cố gắng đảm bảo thu nhập mỗi ngày công ít nhất cũng được từ 0đ40 trở lên.
Trong lúc thực hiện, các địa phương cần đặc biệt chú ý phải đảm bảo hoàn thành kế hoạch, không được xin thêm kinh phí vì Bộ Thủy lợi và Điện lực đã phân phối hết số tiền Nhà nước trợ cấp cho các địa phương. Sau khi tính toán, cân đối, quy định các mức trợ cấp xong, ở từng công trường phải công bố mức trợ cấp 1m3 đất cho dân công biết.
3. Số tiền chi về gián tiếp phí, tập thể phí, mua dụng cụ (12% kinh phí được cấp) nên phân phối như sau:
- Tuyên truyền, thi đua khen thưởng, báo chí: 1,5% kinh phí được cấp.
- Bồi thường đất đai hoa màu, nhà cửa (địa phương cần báo trước cho nhân dân biết để giảm chi khoản này): 1% kinh phí được cấp;
- Mua sắm, sửa chữa và cải tiến dụng cụ: 2,5%
- Hành chính phí kể cả lương phù động, tạm tuyển, dầu đèn… (không trả lương cho người ở trong biên chế Nhà nước, không sử dụng hành chính phí để mua sắm các vật dụng lâu dài, như xe đạp, máy phóng thanh, phích, ca, cốc…): 3% kinh phí được cấp.
- Mua thuốc men, một ít dụng cụ y tế cần thiết và chăm sóc người ốm đau hoặc bị tai nạn lao động: 4% kinh phí được cấp.
Dựa vào quy định trên, các địa phương có thể bớt khoản này một ít để thêm vào khoản khác cho hợp lý, sát với hoàn cảnh thực tế của từng công trường, phải tính toán kỹ tỷ lệ gián tiếp phí cần thiết, và phải sử dụng cho đúng mức để đảm bảo thực hiện đầy đủ các chính sách, nhất là chính sách bảo hộ lao động, bảo đảm sức khỏe cho dân công và chính sách tiết kiệm chống tham ô lãng phí. Ngoài ra phải phấn đấu để giảm bớt những khoản có thể giảm như chi về ốm đau, tai nạn, hành chính phí bằng cách đề phòng tai nạn, ốm đau, sắp xếp tổ chức, sử dụng thuốc men cho hợp lý.
Sau khi hoàn thành công trường và đảm bảo các khoản chi phí trên, nơi nào còn thừa kinh phí gián tiếp, thì phải trả lại cho Bộ ThỦy lợi và Điện lực để nộp lại công quỹ, không được chi vào việc khác.
IV. CÁC CHẾ ĐỘ ÁP DỤNG TRONG CÔNG TÁC DÂN CÔNG ĐẮP ĐÊ.
Công việc đắp đê nặng nhọc, nên phải đặc biệt quan tâm đến sức khỏe, đời sống của dân công. Phải tổ chức phòng bệnh, chữa bệnh, đề phòng tai nạn lao động, cụ thể như sau:
1. Về ăn, ở:
Đối với dân công ăn ở tập trung, công trường phải chăm lo chỗ ở cho dân công,phải dựa vào dân, bàn bạc với dân, tích cực tạo điều kiện để dân công có chỗ nằm nhất thiết không để dân công nằm đất. Phải bố trí chỗ ăn, nghỉ kể cả nghỉ trưa cho dân công trên công trường.
Cơ quan Thương nghiệp và hợp tác xã mua bán, cần tổ chức ở công trường các tổ bán thực phẩm, vật dụng như gạo, mắm muối, củi, thuốc hút… để quản lý giá cả thị trường, đồng thời thiết thực phục vụ dân công.
2. Phòng bệnh, chữa bệnh:
Tuỳ tình hình thực tế từng công trường, Ủy ban hành chính khu, thành, tỉnh giao trách nhiệm cho cơ quan Y tế địa phương, hướng dẫn nghiệp vụ cho các công trường, bố trí đủ y tá và kiểm tra, đôn đốc công tác phòng, chữa bệnh. Ở công trường phải có nội quy bảo hộ lao động và đặt công tác vệ sinh phòng bệnh thành một công tác quan trọng được nhắc nhở thường xuyên. Công trường phải đảm bảo thuốc chữa bệnh thông thường, thuốc cấp cứu, đảm bảo thuốc và điều kiện chữa bệnh cho dân công khi ốm đau hoặc xảy ra tai nạn lao động. Tuỳ theo số lượng dân công nhiều, ít, sáng đi tối về hay ăn ở tập trung mà công trường tổ chức trạm phát thuốc, cấp cứu và trạm xá.
Dân công ốm nhẹ, như cảm, sốt, ho… thi công trường săn sóc thuốc men. Nếu phải nghỉ sản xuất, thì công trường cấp tiền ăn mỗi ngày 0đ40, để người ốm tạm nghỉ ở công trường một vài hôm rồi tiếp tục làm việc. Nếu không khỏi thì người ốm có thể xin về gia đình điều trị, và sẽ đi phục vụ vào đợt khác. Nếu ốm nặng, công trường săn sóc thuốc men và giới thiệu đi bệnh viện để điều trị, trong lúc đi đường công trường đài thọ tiền ăn, tiền xe, cáng nếu có. Trong thời gian điều trị ở bệnh viện, người dân công bị bệnh cũng xem như thường dân bị bệnh điều trị tại đây. Dân công chết vì ốm đau, được công trường chăm lo mai táng như điều lệ dân công đã quy định.
3. Về tai nạn lao động:
Trước hết Ủy ban hành chính địa phương, cán bộ lãnh đạo công trường và cán bộ các đơn vị dân công phải luôn luôn coi trọng công tác đề phòng tai nạn lao động, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở trong các cuộc hội nghị, trong lúc làm việc, công trường phải có nội quy bảo vệ an toàn lao động, phải có biện pháp ngăn ngừa trước, phải triệt để cấm đào đất theo kiểu hàm ếch, phải có kỷ luật nghiêm minh và giáo dục mọi người chấp hành một cách tuyệt đối. Trường hợp có dân công bị tai nạn lao động, thì phải cứu chữa kịp thời và trợ cấp tiền ăn hàng ngày, hoặc giới thiệu nạn nhân đi bệnh viện điều trị, viện phí do công trường đài thọ. Nếu nạn nhân còn điều trị ở bệnh viện mà công trường giải tán, thì bàn giao lại cho Ủy ban hành chính huyện có dân công. Công trường có thể giao lại một số tiền để đài thọ viện phí cho nạn nhân, hoặc nếu không còn tiền, thì Ủy ban hành chính huyện đề nghị lên tỉnh trích quỹ cứu tế xã hội của địa phương để chi.
Nếu xảy ra tai nạn lao động chết người, thì công trường chịu trách nhiệm mai táng như điều lệ dân công đã quy định.
Trường hợp có dân công bị tai nạn lao động thành thương tật hoặc chết, thì tùy tình hình cụ thể từng trường hợp mà giải quyết trợ cấp theo khả năng giúp đỡ của hợp tác xã hay tập đoàn sản xuất mà nạn nhân có trong tổ chức đó, khả năng tiền phúc lợi xã hội của công trường và quỹ cứu tế xã hội của địa phương, và xét xem thương tật bị ảnh hưởng đến sức lao động nhiều hay ít, hoàn cảnh đời sống gia đình của người bị thương tật hay người chết thiếu thốn đến mức độ nào mà Ủy ban hành chính khu, thành, tỉnh xét trợ cấp giúp đỡ một số tiền, để giải quyết một phần khó khăn về đời sống trong bước đầu của bản thân hay gia đình nạn nhân. Mặt khác, chính quyền và đoàn thể huyện, xã có kế hoạch an ủi và giúp đỡ thiết thực các mặt khác cho bản thân hay gia đình họ.
4. Các quyền lợi tập thể khác cho dân công, như báo chí, dầu thắp đèn, giấy làm việc… đều lấy quỹ về gián tiếp phí, tập thể phí mà giải quyết.
V. NHIỆM VỤ CỦA CÁC CẤP, CÁC NGÀNH
1. Ủy ban hành chính khu, thành, tỉnh:
Ủy ban hành chính khu, thành, tỉnh có trách nhiệm về toàn bộ công tác dân công đắp đê trong phạm vi khu, thành, tỉnh mình cụ thể là:
- Lãnh đạo, hướng dẫn Ủy ban hành chính cấp dưới nhất là xã tổ chức, tuyên truyền, giáo dục nhân dân, tổ chức huy động dân công đúng chính sách, thi hành tốt quy định của Chính phủ về các mặt.
- Lãnh đạo Sở, Ty Thủy lợi chuẩn bị công trường được chu đáo, lãnh đạo các ban chỉ huy công trường tổ chức thực hiện tốt việc giao khoán, sử dụng dân công, tuyên truyền, động viên thi đua, khen thưởng, đẩy mạnh cải tiến kỹ thuật tăng năng suất đảm bảo thu nhập dân công, thi hành đầy đủ mọi chính sách, chế độ theo đúng quy định của Chính phủ.
- Lãnh đạo các ngành Lao động, Y tế, Thương nghiệp….trong công tác nghiệp vụ của mỗi ngành để phục vụ thiết thực cho công tác đắp đê hoàn thành tốt.
- Kiểm tra, đôn đốc toàn bộ việc huy động và sử dụng dân công, sử dụng kinh phí, kết hợp thi hành các chính sách khác và thường xuyên báo cáo toàn bộ công tác về Bộ Lao động và Bộ Thủy lợi và Điện lực.
2. Sở, Ty Thủy lợi và ban chỉ huy công trường:
Dưới sự lãnh đạo của Ủy ban hành chính khu, thành, tỉnh, các Sở, Ty Thủy lợi và ban chỉ huy công trường phải nghiêm chỉnh thi hành các điều khoản quy định của Chính phủ.
3. Sở, Ty, Phòng Lao động:
Giúp Ủy ban hành chính phổ biến, hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc huy động và sử dụng dân công đắp đê đảm bảo chính sách của Chính phủ.
Công tác dân công đắp đê năm nay tiến hành có một số khó khăn: triền đê ngày một cao, lấy đất càng xa, thời gian đắp đê lại trùng với vụ sản xuất Đông-Xuân và công tác kiến thiết cơ bản thu hút rất nhiều nhân công. Nhưng có nhiều thuận lợi: ở nông thôn phong trào hợp tác hóa nông nghiệp bậc thấp đã căn bản hoàn thành, là chỗ dựa tốt nhất cho công tác huy động dân công; phong trào quần chúng đang sôi nổi thi đua thực hiện nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ ba. Kinh nghiệm đã qua cho ta thấy nơi nào làm công tác động viên chính trị, giáo dục quần chúng kỹ, thì quần chúng nhận rõ nhiệm vụ đắp đê và phấn khởi tham gia công tác đắp đê được nhanh, gọn, tốt. Vì vậy, trước lúc lên công trường, mọi người phải được phổ biến chính sách làm khoán, nội quy bảo hộ lao động, nhiệm vụ cải tiến công cụ, hợp lý hoá tổ chức lao động, nhằm nâng cao năng suất lao động, trên cơ sở đó mà đảm bảo và tăng thu nhập cho dân công. Trong lúc làm việc trên công trường, công tác tuyên truyền, động viên phải thường xuyên để dân công hăng hái, phấn khởi thi đua hoàn thành tốt nhiệm vụ. Việc tổ chức đắp đê cần phải làm chu đáo, từ lúc bắt tay chuẩn bị huy động dân công, đến việc bố trí công trường, sắp xếp lực lượng dân công cho hợp lý, chú trọng việc cải tiến công cụ đều có ý nghĩa quan trọng đến việc hoàn thành tốt công tác dân công đắp đê năm nay.
Liên bộ mong Ủy ban hành chính các cấp nghiên cứu, phổ biến thi hành. Trong lúc thực hiện có gì mắc mứu kịp thời phản ánh để Liên bộ tham gia ý kiến giải quyết.
BỘ
TRƯỞNG |
BỘ
TRƯỞNG |
Thông tư liên bộ 01-TT/LB năm 1961 hướng dẫn chế độ dân công đắp đê năm 1961 do Bộ Lao động, Bộ Thuỷ lợi và Điện lực ban hành.
Số hiệu: | 001-TT/LB |
---|---|
Loại văn bản: | Thông tư liên tịch |
Nơi ban hành: | Bộ Lao động, Bộ Thủy lợi và Điện lực |
Người ký: | Dương Quốc Chính, Nguyễn Văn Tạo |
Ngày ban hành: | 18/01/1961 |
Ngày hiệu lực: | Đã biết |
Tình trạng: | Đã biết |
Văn bản đang xem
Thông tư liên bộ 01-TT/LB năm 1961 hướng dẫn chế độ dân công đắp đê năm 1961 do Bộ Lao động, Bộ Thuỷ lợi và Điện lực ban hành.
Chưa có Video