CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 203-CT |
Hà Nội, ngày 20 tháng 7 năm 1982 |
CHỈ THỊ
VỀ VIỆC TRIỂN KHAI CÔNG TÁC XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT
1. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ V đã đề ra vấn đề chiến lược kinh tế xã hội cho chặng đường đầu tiên của quá trình công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ hai (khoá V), trong chương trình toàn khoá đã nêu lên nhiệm vụ xây dựng chiến lược kinh tế dài hạn và kế hoạch 5 năm lần thứ tư 1986-1990.
Để làm căn cứ cho việc xây dựng chiến lược kinh tế xã hội dài hạn, cần khẩn trương triển khai công tác xây dựng hệ thống dự báo khoa học và kỹ thuật và chiến lược khoa học và kỹ thuật dài hạn của nước ta.
2. Căn cứ xuất phát để xây dựng hệ thống các dự báo khoa học và kỹ thuật và chiến lược khoa học và kỹ thuật dài hạn là:
a) Các Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ V.
b) Nghị quyết số 37-NQ/TƯ của Bộ Chính trị về chính sách khoa học và kỹ thuật.
c) Tình hình thực trạng và những bước phát triển sắp tới của nền kinh tế xã hội và nền khoa học và kỹ thuật của đất nước.
d) Xu thế phát triển của tình hình kinh tế xã hội và khoa học, kỹ thuật của Liên Xô, của các nước xã hội chủ nghĩa trong Hội đồng tương trợ kinh tế và nói chung của các nước khác trên thế giới.
3. Để chuẩn bị cho công tác xây dựng hệ thống dự báo khoa học và kỹ thuật và chiến lược khoa học và kỹ thuật dài hạn, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng quyết định:
- Uỷ ban khoa học và kỹ thuật Nhà nước,
- Viện Khoa học Việt Nam,
- Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam,
- Bộ Đại học và trung học chuyên nghiệp,
- Uỷ ban Xây dựng cơ bản Nhà nước,
mỗi nơi phải thành lập ngay một tổ nghiên cứu chuyên đề gồm 5 đến 7 cán bộ có phẩm chất và trình độ, tập trung toàn bộ thời gian vào công tác nghiên cứu những vấn đề đã nêu ra trong chỉ thị. Tổ cán bộ này làm việc dưới sự chỉ đạo trực tiếp của một đồng chí cán bộ lãnh đạo cơ quan (cấp Phó Chủ nhiệm, Thứ trưởng, Viện phó).
4. Nhiệm vụ của tổ nghiên cứu chuyên đề này là:
a) Nghiên cứu phương pháp luận của công tác xây dựng các dự báo khoa học và kỹ thuật và chiến lược khoa học và kỹ thuật dài hạn, chủ yếu là của Liên Xô và các nước trong Hội đồng tương trợ kinh tế, đồng thời tham khảo phương pháp của một số nước khác.
b) Đề xuất sơ bộ các vấn đề cần xây dựng dự báo khoa học và kỹ thuật và nội dung những vấn đề cơ bản cần nghiên cứu của chiến lược khoa học và kỹ thuật.
Đối với những vấn đề mà nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ V và nghị quyết của Bộ Chính trị về chính sách khoa học và kỹ thuật đã đề xuất rõ rệt thì có thể bắt đầu đi vào xây dựng các dự báo khoa học và kỹ thuật và nghiên cứu nội dung chiến lược cụ thể ngay từ bây giờ; thí dụ như vấn đề lương thực - thực phẩm, một số hàng tiêu dùng thiết yếu, xuất, khẩu năng lượng - nhiên liệu, nguyên liệu - vật liệu, giao thông vân tải, quản lý, v.v...
5. Trong khi tiến hành công tác nghiên cứu, các tổ chuyên đề cần liên hệ chặt chẽ với các cơ quan hữu quan, nhất là các cơ quan thông tin, thống kê để tập hợp lực lượng và thu thập các thông tin cần thiết. Đồng thời các tổ chuyên đề phải kết hợp chặt chẽ với các cơ quan tương ứng làm công tác kế hoạch kinh tế xã hội, các nhóm liên ngành đang xây dựng phương án kinh tế - kỹ thuật, nhất là với các cơ quan có trách nhiệm nghiên cứu chiến lược kinh tế xã hội (quan hệ với cơ quan này sẽ có quy định cụ thể).
Các tổ chuyên đề của Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước, Viện khoa học Việt Nam, Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam, Bộ Đại học và trung học chuyên nghiệp, Uỷ ban Xây dựng cơ bản Nhà nước cần thường xuyên phối hợp với nhau, tổ chức nghiên cứu và trao đổi với nhau thông qua các hội nghị có tính chất liên ngành và các hội nghị chuyên đề. Giao Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước chủ trì việc phối hợp nói trên.
6. Từ nay đến cuối tháng 9 năm 1982 các tổ nghiên cứu chuyên đề phải có báo cáo đầu tiên về việc triển khai và về kết quả công tác nhằm giúp Hội đông Bộ trưởng ban hành một chỉ thị cơ bản về công tác xây dựng hệ thống dự báo khoa học và kỹ thuật và xây dựng chiến lược khoa học và kỹ thuật dài hạn.
Đây là một công tác hết sức quan trọng và cấp bách, chúng ta đã bắt đầu làm, nhất là từ khi triển khai việc xây dựng chính sách khoa học và kỹ thuật, hệ thống các chương trình tiến bộ khoa học kỹ thuật trọng điểm của Nhà nước và trong quá trình tham gia vào công việc chuẩn bị cho Đại hội Đảng lần thứ V.
Các cơ quan có trách nhiệm cần nghiêm chỉnh chấp hành chỉ thị này và định kỳ hàng tháng báo cáo lên Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng qua vụ 10 Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng.
|
Võ Nguyên Giáp (Đã ký)
|
Chỉ thị 203-CT năm 1982 về việc triển khai công tác xây dựng chiến lược khoa học và kỹ thuật do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ban hành
Số hiệu: | 203-CT |
---|---|
Loại văn bản: | Chỉ thị |
Nơi ban hành: | Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng |
Người ký: | Võ Nguyên Giáp |
Ngày ban hành: | 20/07/1982 |
Ngày hiệu lực: | Đã biết |
Tình trạng: | Đã biết |
Văn bản đang xem
Chỉ thị 203-CT năm 1982 về việc triển khai công tác xây dựng chiến lược khoa học và kỹ thuật do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ban hành
Chưa có Video