BỘ
NÔNG NGHIỆP |
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA |
Số: 20-NN-CT |
Hà Nội, ngày 31 tháng 10 năm 1962 |
VỀ VIỆC CHẤN CHỈNH VÀ XÂY DỰNG TRẠM TRUYỀN GIỐNG GIA SÚC BẰNG THỤ TINH NHÂN TẠO
Kính gửi: |
- Ủy ban hành chính các khu, tỉnh,
thành |
I. NHIỆM VỤ, PHƯƠNG HƯỚNG TRUYỀN GIỐNG BẰNG THỤ TINH NHÂN TẠO CHO GIA SÚC
Từ 1957 đến 1959, chúng ta đã bắt đầu tổ chức trạm truyền giống trực tiếp trâu, bò, lợn, ngựa, nhưng kết quả chưa được bao nhiêu. Đến 1960, một số trạm đã trở thành trại thí nghiệm tổng hợp của tỉnh, số rất ít còn lại chuyển sang trạm truyền giống bằng thụ tinh nhân tạo như: Trùng-khánh (Cao bằng), Thuận thành (Bắc ninh). Từ cuối 1961-1962, vấn đề thụ tinh nhân tạo gia súc được chú trọng hơn; một số trạm cũ được phục hồi; công tác truyền giống bằng thụ tinh nhân tạo có tiến bộ, nhất là truyền giống lợn. Tuy nhiên, do nhiệm vụ, phương hướng trạm truyền giống gia súc chưa rõ ràng, kế hoạch tổ chức và phương pháp hoạt động của trạm có nhiều thiếu sót; kỹ thuật chuyên môn còn lúng túng, nên tác dụng của việc truyền giống bị hạn chế, kết quả truyền giống bằng thụ tinh nhân tạo cho gia súc còn rất ít so với yêu cầu.
Căn cứ vào ưu khuyết điểm và kinh nghiệm của công tác truyền giống trong những năm vừa qua, để đáp ứng được yêu cầu của việc phát triển chăn nuôi trong thời gian tới, nhiệm vụ, phương hướng truyền giống bằng thụ tinh nhân tạo là: từ nay đến năm 1965, xây dựng màng lưới trạm truyền giống bằng thụ tinh nhân tạo cho trâu bò, lợn nhằm góp phần giải quyết thiếu đực giống, đẩy mạnh sinh sản và nâng cao chất lượng gia súc. Phấn đấu đến năm 1965, truyền giống bằng thụ tinh nhân tạo được 9-10% tổng số trâu bò cái và 13-15% tổng số lợn nái. Ở những vùng có giống gia súc tốt, vùng chăn nuôi sinh sản lợn, hầu hết gia súc cái cần được thụ tinh nhân tạo, hoặc có đủ đực giống để phối tinh, đảm bảo mức sinh sản cao nhất.
Về phương châm: dùng đực tốt hiện có trong nước để truyền giống là chính. Nơi có thức ăn dồi dào và đã cải tiến được việc chăn vỗ, nếu quần chúng yêu cầu, có thể dùng đực thuần chủng nước ngoài để lai kinh tế.
II. CHỦ TRƯƠNG VÀ BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH
1. Về mặt tổ chức
Để thực hiện nhiệm vụ trên đến năm 1965, toàn miền Bắc xây dựng 32 trạm thụ tinh nhân tạo (trong đó có 12 trạm tổng hợp, 5 trạm trâu bò và 15 trạm lợn), đồng thời sẽ lập khoảng 172 phân trạm và tổ chức màng lưới thụ công viên (người làm công tác thụ tinh nhân tạo), đảm bảo truyền giống khắp các vùng có chăn nuôi sinh sản lớn, và những vùng thiếu đực giống nhất trong từng địa phương (xem phụ bản).
Mỗi tỉnh Trung du và đồng bằng cần lập một trạm trung tâm thụ tinh nhân tạo theo hướng tổng hợp (trâu, bò, lợn); riêng những tỉnh lớn như: Thanh hóa, Nghệ an …có thể lập hai trạm trung tâm tổng hợp, hoặc trạm trâu bò riêng, trạm lợn riêng, nếu vùng sinh sản về lợn cách xa vùng sinh sản về trâu, bò.
Đối với những tỉnh miền núi, giao thông liên lạc khó khăn, thì chủ yếu là vận động các hợp tác xã chọn, nuôi đủ đực giống tốt. Nơi cần thiết và có điều kiện (điện, nước…) có thể lập trạm thụ tinh nhân tạo với quy mô nhỏ, nhằm truyền giống tốt cho một số vùng chăn nuôi sinh sản trong phạm vi hẹp; đồng thời lấy thực tế đó tuyên truyền vận động các nơi khác cải tiến kỹ thuật chăn nuôi. Chú trọng lập những trạm truyền giống trực tiếp cho ngựa trên các tuyến đường giao thông.
Trong việc xây dựng cơ sở thụ tinh nhân tạo cần chú ý mấy điểm sau đây:
- Tận dụng những phương tiện sẵn có và có cơ sở cũ; trang bị thêm hoặc mở rộng quy mô, xây dựng thành một trạm có khả năng tiến lên hiện đại. Nhưng nếu trạm cũ ở chỗ không có điện, nước thiếu, thiếu đất để mở rộng quy mô, quá xa vùng chăn nuôi sinh sản của tỉnh…thì kiên quyết chọn địa điểm khác có điều kiện thuận lợi hơn để xây dựng trạm mới.
- Phạm vi phát tinh của phân trạm nói chung là theo đơn vị hành chính (huyện, xã). Nhưng đặc biệt lúc đầu cũng có thể tùy theo điều kiện giao thông, liên lạc và tình hình phân bổ đàn gia súc mà phân phối tỉnh giữa các vùng chăn nuôi sinh sản gần nhau nhưng đơn vị hành chính khác nhau.
Các trại thí nghiệm nông nghiệp tổng hợp, trại trường, nông trường cũng là những phân trạm thụ tinh nhân tạo, có nhiệm vụ phát tinh cho những xã chung quanh trại trường và nông trường theo quy định của tỉnh.
- Trong các trại thí nghiệm nông nghiệp tổng hợp tinh, bộ phận chăn nuôi cần kết hợp với công tác nghiên cứu, thí nghiệm mà chăn nuôi một số lợn nái sinh sản để cung cấp đực giống tốt cho trạm thụ tinh nhân tạo, thường xuyên thay thế số đực giống già, mắc bệnh kém năng lực.
Nếu địa phương không có trại tổng hợp, trạm thụ tinh nhân tạo lợn phải tổ chức một bộ phận chăn nuôi lợn sinh sản để tự cung cấp số đực giống cần thiết cho nhu cầu của truyền giống.
2. Các bước công tác
a) Bước một (Từ nay đến cuối 1962):
- Các tỉnh tiến hành điều tra cơ bản, hoặc khảo sát về giống gia súc (chủ yếu trâu, bò, lợn) qua đó xác định nhiệm vụ phương hướng truyền giống cụ thể đối với từng vùng trong địa phương;
- Điều tra chọn địa điểm tập trung trung tâm thụ tinh nhân tạo, xác định những vùng chăn nuôi sinh sản để tập trung công tác truyền giống, đồng thời xác định địa điểm tổ chức phân trạm;
- Chuẩn bị đực giống, dụng cụ, hóa chất cần thiết cho công tác thụ tinh nhân tạo;
- Dự trù kinh phí, kiến thiết cơ bản về trạm trung tâm thụ tinh nhân tạo của tỉnh, cần phải được duyệt ngay trong cuối năm 1962, để đến đầu 1963 có thể bắt tay xây dựng.
- Đào tạo thụ công viên và bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ giống về kỹ thuật thụ tinh nhân tạo: lấy tinh, pha chế tinh, bảo tồn và kiểm tra tinh dịch v.v…
b) Bước hai (năm 1963):
- Trong sáu tháng đầu năm, ở những tỉnh có điều kiện lập trạm thì tiến hành chấn chỉnh, mở rộng cơ sở cũ, hoặc hoàn thành xây dựng trạm mới và bắt đầu phát tinh cho những vùng chăn nuôi sinh sản;
- Tiếp tục giải quyết dụng cụ, thiết bị cho trạm;
- Nghiên cứu phương pháp pha chế, bảo tồn tinh dịch được lâu; thích hợp với những trạm ở cách xa thị trấn, không có điện và nước đá.
c) Bước ba (từ 1964-1965):
- Nói chung các tỉnh tiếp tục củng cố, mở rộng quy mô trạm, phát triển màng lưới, đảm bảo dẫn tinh rộng khắp các vùng chăn nuôi sinh sản về lợn và trâu bò;
Để thực hiện việc truyền giống gia súc bằng thụ tinh nhân tạo, Bộ lưu ý các cấp, các ngành những điểm sau đây:
- Vụ Chăn nuôi và Học viện Nông lâm nghiên cứu hướng dẫn các tỉnh về công tác điều tra cơ bản, về thiết kế xây dựng trạm, về kỹ thuật thụ tinh nhân tạo; giúp tỉnh xác định nhiệm vụ phương hướng biện pháp truyền giống đối với từng vùng;
- Các Sở, Ty Nông lâm, Nông nghiệp, căn cứ tình hình cụ thể của địa phương, giúp Ủy ban xác định các vùng chăn nuôi sinh sản (chủ yếu trâu, bò, lợn) xây dựng mức truyền giống bằng thụ tinh nhân tạo đối với mỗi loại gia súc trong kế hoạch 5 năm và từng năm: trước mắt lập trạm thụ tinh nhân tạo trung tâm của tỉnh, đảm bảo mọi điều kiện của trạm trung tâm và phân trạm;
Ở nơi nào lập trạm truyền giống bằng thụ tinh nhân tạo, các Sở, Ty Nông lâm, Nông nghiệp cần phối hợp với các ngành giáo dục, tuyên truyền và các đoàn thể phụ nữ, thanh niên, để phổ biến rộng rãi ý nghĩa, tác dụng của thụ tinh nhân tạo đối với gia súc, nhằm động viên đông đảo quần chúng tham gia; giải quyết tư tưởng, quan niệm không đúng với thụ công viên;
- Ủy ban hành chính cần lãnh đạo chặt chẽ công tác này; nhất là bố trí cán bộ có năng lực phụ trách trạm và giáo dục cải tạo, sử dụng những chủ lợn hạch; đồng thời nghiên cứu quy định chế độ thù lao thích đáng để khuyến khích vật chất đối với những phân trạm trưởng và thụ công viên cho sát với tình hình cụ thể của từng địa phương.
Phương hướng truyền giống gia súc và kế hoạch lập trạm trung tâm thụ tinh nhân tạo của các tỉnh, khu cần gửi về Bộ duyệt trong năm 1962, để sang đầu năm 1963 có thể bắt tay vào việc xây dựng.
|
BỘ
TRƯỞNG BỘ NÔNG NGHIỆP |
Chỉ thị 20-NN-CT năm 1962 về việc chấn chỉnh và xây dựng trạm truyền giống gia súc bằng thụ tinh nhân tạo do Bộ Nông nghiệp ban hành.
Số hiệu: | 20-NN-CT |
---|---|
Loại văn bản: | Chỉ thị |
Nơi ban hành: | Bộ Nông nghiệp |
Người ký: | Nghiêm Xuân Yêm |
Ngày ban hành: | 31/10/1962 |
Ngày hiệu lực: | Đã biết |
Tình trạng: | Đã biết |
Văn bản đang xem
Chỉ thị 20-NN-CT năm 1962 về việc chấn chỉnh và xây dựng trạm truyền giống gia súc bằng thụ tinh nhân tạo do Bộ Nông nghiệp ban hành.
Chưa có Video