HỢP TÁC QUỐC GIA GIỮA NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
VĂN PHÒNG TỔ CHỨC LAO ĐỘNG QUỐC TẾ GIAI ĐOẠN 2006 – 2010 VỀ XÚC TIẾN VIỆC LÀM BỀN VỮNG TẠI VIỆT NAM
Lời nói đầu
Chiến lược Việc làm Bền vững của Tổ chức Lao động quốc tế đã được các Nước thành viên thông qua vào tháng 6 năm 1999, nhằm "xúc tiến cơ hội cho tất cả mọi người có việc làm bền vững và hiệu quả trong điều kiện tự do, bình đẳng, an toàn và nhân phẩm được tôn trọng"[1]. Chiến lược này được thực hiện thông qua bốn mục tiêu chiến lược, đó là: các nguyên tắc và quyền cơ bản tại nơi làm việc; việc làm; bảo vệ xã hội và đối thoại xã hội.
Tại Hội nghị Khu vực Châu Á lần thứ 13 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) được tổ chức tại Băng Cốc vào tháng 8 năm 2001 các đại biểu "đã kêu gọi tất cả các Nước thành viên trong khu vực xây dựng kế hoạch hành động quốc gia về Việc làm bền vững thông qua tiến hành ba bên" và đề nghị ILO "hỗ trợ các đối tác ba bên trong việc xây dựng các kế hoạch hành động quốc gia này"[2].
Khuôn khổ hợp tác quốc gia giữa Việt Nam và ILO giai đoạn 2006 – 2010 về Xúc tiến Việc làm Bền vững tại Việt Nam (sau đây gọi là Khuôn khổ hợp tác) là sự hưởng ứng của các đối tác ba bên của ILO ở Việt Nam đối với lời kêu gọi hành động nói trên. Khuôn khổ này đưa ra một khung chiến lược trong đó Chính phủ, các tổ chức của Người lao động và Người sử dụng lao động nhất trí cùng phối hợp hoạt động nhằm hướng tới mục tiêu Việc làm bền vững cho mọi người ở Việt Nam, với sự hỗ trợ của Tổ chức Lao động Quốc tế.
Khuôn khổ hợp tác sẽ được thực hiện trong bối cảnh Việt Nam triển khai Chiến lược phát triển Kinh tế - xã hội 10 năm (2001 – 2010) và Kế hoạch 5 năm Phát triển Kinh tế - xã hội (2006 – 2010). Khuôn khổ hợp tác này còn được xây dựng dựa trên các văn kiện liên quan khác như Báo cáo đánh giá quốc gia chung của Liên hợp quốc (CCA) năm 2004 và Khung hỗ trợ phát triển của Liên hợp quốc (UNDAF) giai đoạn 2006 – 2010.
Khuôn khổ hợp tác kéo dài trong 5 năm (2006 – 2010) sẽ được điều chỉnh linh hoạt theo những yêu cầu thay đổi của đất nước và của các đối tác ba bên trong quá trình Việt Nam chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Những hành động ưu tiên cụ thể sẽ được đưa ra 2 năm một lần và nêu rõ trong Chương trình hoạt động 2 năm của ILO cũng như được phản ánh trong các kế hoạch hoạt động hàng năm của các đối tác ba bên.
Các đối tác ba bên và các cơ quan điều phối viện trợ của Chính phủ sẽ thành lập một Ủy ban Hỗn hợp ILO/Việt Nam để hướng dẫn, theo dõi việc thực hiện Khuôn khổ hợp tác quốc gia và sẽ cùng phối hợp để huy động các nguồn lực bên ngoài cho các dự án và các hoạt động nhằm hỗ trợ cho việc thực hiện Khuôn khổ hợp tác. Các nguồn lực cũng sẽ được phân bổ từ ngân sách thường xuyên của ILO trên cơ sở các kế hoạch hoạt động 2 năm của tổ chức.
Trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và hội nhập ngày càng sâu hơn vào các thị trường khu vực và toàn cầu hiện nay, những cam kết của Việt Nam trong các Hiệp định thương mại và những nỗ lực gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới đang tác động tới lĩnh vực lao động trên mọi phương diện. Trong khi sự cạnh tranh khốc liệt về thị trường và đầu tư có nguy cơ làm tổn hại tới các điều kiện việc làm, thì lại có một nghịch lý là quá trình tự do hóa và hội nhập kinh tế khiến cho các ngành định hướng xuất khẩu bị người tiêu dùng ngoài nước (và các đối thủ cạnh tranh) theo dõi sát sao và phải đối mặt với những sức ép trong việc thực hiện tốt hơn các tiêu chuẩn lao động và việc cưỡng chế thực thi các quy định này một cách chặt chẽ hơn. Công nghệ mới tạo ra năng suất cao hơn nhưng lại đòi hỏi phải có sự rà soát lại các chiến lược phát triển nguồn nhân lực. Chính sách công nghiệp hóa của đất nước mang lại lợi ích tăng trưởng kinh tế, song khả năng tạo việc làm lại phụ thuộc vào sự lựa chọn của các ngành công nghiệp. Các cực tăng trưởng tạo việc làm cho cả hai khu vực kinh tế chính thức và phi chính thức, nhưng hậu quả của việc di cư từ các vùng nông thôn lại làm tăng thêm gánh nặng cung ứng dịch vụ, bao gồm dịch vụ của các cơ sở dạy nghề và các trung tâm dịch vụ việc làm. Sự phát triển mạnh mẽ của khu vực phi chính thức và doanh nghiệp cực nhỏ đã tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, nhưng điều kiện làm việc, tiền lương, bảo hiểm xã hội và chất lượng công việc ở khu vực này nói chung: còn thấp. Một số lao động (và doanh nghiệp) còn nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của luật phát lao động, cơ quan quản lý lao động và các chủ thể của quan hệ lao động, do vậy họ không thể bày tỏ những mối quan tâm và nguyện vọng của mình. Bản thân các chủ thể trong quan hệ lao động cũng đang trải qua thời kỳ quá độ nhằm đáp ứng những nhu cầu thay đổi của chính mình.
Việt Nam là một đất nước đang thay đổi nhanh chóng, năng động và thành công. Tiềm năng của Việt Nam là rất lớn, một phần nhờ chính sách phát triển của Chính phủ lấy con người làm trung tâm. Quan điểm việc làm bền vững, với mục tiêu gắn số lượng với chất lượng việc làm cũng như khả năng tiếp cận các việc làm đó, có thể sẽ giúp cho việc thực hiện hóa chính sách phát triển con người trong lĩnh vực lao động.
ILO và các đối tác của mình cam kết thực hiện Khuôn khổ Hợp tác về Việc làm bền vững nhằm hỗ trợ các chiến lược và chính sách phát triển, từ đó xúc tiến quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường của Việt Nam và tăng cường các nỗ lực của Chính phủ để đảm bảo rằng tăng trưởng kinh tế luôn gắn liền với tiến bộ xã hội. Khung tham chiếu và xuất phát điểm của Khuôn khổ hợp tác là những mục tiêu được nêu trong Chiến lược Phát triển Kinh tế xã hội 10 năm của Chính phủ (2001 – 2010) và Kế hoạch 5 năm Phát triển Kinh tế - xã hội giai đoạn 2 (2006 – 2010) hiện đang trong quá trình xây dựng.
2. Những thách thức chính và lĩnh vực hành động ưu tiên
Mục tiêu của Khuôn khổ hợp tác phải tính đến và phù hợp với hoàn cảnh của quốc gia. Những mục tiêu này ở Việt Nam gồm:
- Phát triển một thị trường lao động hoạt động theo quy định của pháp luật và tăng cường các thể chế lao động nhằm hỗ trợ quá trình hội nhập kinh tế và chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường;
- Tạo việc làm và giảm nghèo bao gồm việc hỗ trợ khu vực tư nhân đang nổi lên, phát triển nguồn nhân lực, phát triển kỹ năng và tăng thu nhập;
- Mở rộng hơn nữa độ bao phủ của hệ thống an sinh xã hội và an toàn vệ sinh lao động; và
- Các chính sách hỗ trợ nhóm lao động yếu thế nhất.
Trên cơ sở nhận thức rõ điều này, qua nhiều lần tham khảo ý kiến giữa ILO và các đối tác Việt Nam, Khuôn khổ hợp tác quốc gia đã được xây dựng dựa trên bốn lĩnh vực chiến lược là i) các thể chế lao động; ii) thị trường lao động và việc làm; iii) an sinh xã hội và an toàn vệ sinh lao động; và iv) các nhóm yếu thế. Một số mục tiêu và các lĩnh vực hoạt động ưu tiên đã được xác định cho bốn lĩnh vực chiến lược này nhằm hướng tới mục tiêu Việc làm Bền vững cho mọi người ở Việt Nam. Bốn lĩnh vực chiến lược quốc gia này được thể hiện trong bốn mục tiêu chiến lược của ILO, đó là, các nguyên tắc và quyền cơ bản tại nơi làm việc; tạo việc làm có chất lượng; bảo vệ xã hội và đối thoại xã hội.
Các thách thức chính
Với tư cách là các tổ chức, cơ cấu và quy trình hình thành và định hướng cho các mối quan hệ kinh tế - xã hội trong lĩnh vực lao động, các thể chế lao động có vai trò quan trọng đối với sự phát triển và ổn định kinh tế của mỗi quốc gia. Thể chế yếu sẽ cản trở phát triển. Thể chế mạnh, nhanh nhạy sẽ đảm bảo để ba chủ thể kinh tế then chốt là Chính phủ, doanh nghiệp và người lao động trở thành các đối tác quan trọng tham gia vào quá trình quản lý kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Thể chế mạnh cũng đảm bảo rằng các chủ thể kinh tế duy trì được tính đại diện và trách nhiệm đối với các thành viên của họ.
Khuôn khổ hợp tác tạo điều kiện cho việc xây dựng các thể chế lao động vững mạnh. Các Tiêu chuẩn Lao động Quốc tế sẽ là các cơ sở so sánh, hướng dẫn và các ví dụ điển hình để tham khảo và ứng dụng phù hợp đối với việc xây dựng pháp luật và chính sách lao động quốc gia trên nhiều lĩnh vực như: quản lý lao động, thanh tra lao động, việc làm, phát triển nguồn nhân lực, hợp tác xã và tiền lương. Việc hỗ trợ quá trình phê chuẩn các tiêu chuẩn này khuyến khích việc rà soát và sửa đổi bổ sung luật pháp trong nước, và việc sự hỗ trợ thực hiện các tiêu chuẩn này sẽ góp phần tăng cường năng lực thể chế và cá nhân. Các hoạt động đối thoại xã hội góp phân tăng cường quá trình xây dựng quan hệ lao động và nâng cao năng lực của các chủ thể quan hệ lao động, tạo ra các cơ sở và lĩnh vực hợp tác mới, và thúc đẩy tạo dựng môi trường quan hệ lao động đồng thuận và lành mạnh.
Các mục tiêu
1. Đánh giá và tăng cường các thể chế lao động then chốt để bắt kịp với sự thay đổi về kinh tế - xã hội và đảm bảo rằng tất cả mọi công dân đều được hưởng lợi một cách công bằng từ những của cải vật chất mà họ tạo ra.
2. Tính phù hợp giữa các tiêu chuẩn lao động trong nước với các tiêu chuẩn lao động quốc tế (TCLĐQT) sẽ được rà soát và TCLĐQT cung cấp các hướng dẫn và cơ sở so sánh cho việc sửa đổi, bổ sung luật pháp và thực tiễn trong nước.
3. Việt Nam có được một hệ thống quan hệ lao động lành mạnh và hài hòa để xúc tiến tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và tôn trọng các quyền tại nơi làm việc và đối thoại xã hội ba bên là một công cụ cho việc tham khảo ý kiến và hợp tác trong lĩnh vực lao động ở cấp quốc gia và cấp tỉnh.
4. Tăng cường vai trò, năng lực và trách nhiệm của các đối tác ba bên và các cơ quan có liên quan khác trong việc hoạch định chính sách và tham gia trong cơ chế ba bên.
Các lĩnh vực hành động ưu tiên
- Rà soát lại một số Tiêu chuẩn Lao động quốc tế cơ bản để xem xét khả năng phê chuẩn và đưa vào pháp luật và thực tiễn quốc gia.
- Tăng cường năng lực cho cán bộ của các cơ quan liên quan trong việc thực hiện các công ước đã phê chuẩn (như quản lý lao động, thanh tra lao động).
- Tăng cường năng lực cho các thể chế và chủ thể quan hệ lao động ở cấp quốc gia, cấp tỉnh, cấp địa phương và cấp doanh nghiệp.
- Xây dựng cơ sở nền tảng và tổ chức các diễn đàn đối thoại chính sách ba bên và hai bên ở cấp quốc gia, cấp tỉnh và cấp địa phương và tại các doanh nghiệp.
- Những sáng kiến mới của Chính phủ, Tổ chức của Người lao động và Người sử dụng lao động trong việc áp dụng tiêu chuẩn lao động tại nơi làm việc (ví dụ thông qua các sáng kiến về trách nhiệm xã hội doanh nghiệp).
2.2. Thị trường lao động và Việc làm
Các thách thức chính
Quá trình hội nhập kinh tế và chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường đang tạo ra cả những thánh thức và cơ hội. Có nhiều dấu hiệu cho thấy tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm đang gia tăng và ngày càng nhiều người lao động tham gia vào khu vực kinh tế phi chính thức. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm trong thanh niên cao hơn so với tỷ lệ chung của cả nước. Các trung tâm dịch vụ việc làm và các tổ chức đào tạo nghề nhận thấy sự cần thiết phải xây dựng một giáo trình đào tạo mới để kết nối thành công cung và cầu thị trường lao động. Trong khi khu vực tư nhân, các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các hợp tác xã đang trở thành nguồn tạo việc làm chủ yếu, thì việc cưỡng chế thực thi pháp luật và thanh tra lao động vẫn còn cần phải bàn tới và đôi khi có sự thỏa hiệp giữa số lượng việc làm được tạo ra và chất lượng của các công việc này. Đây thực sự là vấn đề của khu vực kinh tế phi chính thức song ít được quan tâm đến. Di cư từ nông thôn ra thành thị tuy là một hiện tượng tương đương mới, song cần có sự quan tâm của các nhà hoạch định chính sách nếu muốn "cung" về việc làm và dịch vụ theo kịp "cầu" và nếu muốn người lao động di cư được tiếp cận việc làm có chất lượng, ổn định, có thu nhập đảm bảo và được bảo hiểm xã hội. Di chuyển lao động ra nước ngoài được xác định là một yếu tố trong chiến lược quốc gia để giải quyết các nhu cầu việc làm, song việc quản lý di chuyển lao động ra nước ngoài và bảo vệ quyền của người lao động di cư cần được củng cố hơn nữa. Cuối cùng, vẫn còn tình trạng nghèo đói và khoảng cách giàu nghèo vẫn đang gia tăng, đặc biệt là giữa khu vực nông thôn và thành thị và giữa các nhóm đồng bào dân tộc thiểu số đang sinh sống ở khu vực miền núi và vùng sâu, vùng xa. Vì vậy, các chính sách xóa đói giảm nghèo cần xác định rõ tầm quan trọng của công tác tạo việc làm và coi đây là một công cụ chính để xóa đói, giảm nghèo và hòa nhập xã hội.
Các mục tiêu
1. Củng cố các thị trường lao động nhằm hỗ trợ mục tiêu tạo ra số lượng việc làm bền vững cần thiết mỗi năm.
2. Lồng ghép các chính sách và chiến lược tạo việc làm nhằm hỗ trợ các nỗ lực xóa đói, giảm nghèo.
3. Lồng ghép các vấn đề về giới vào các chính sách việc làm.
4. Tiếp tục phát triển khu vực doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ để hỗ trợ tạo việc làm.
5. Sử dụng các công cụ và phương pháp của ILO để hỗ trợ tạo việc làm có chất lượng.
6. Các hợp tác xã trở thành phương tiện để giảm nghèo bằng cách tạo ra và phát triển các hoạt động tạo thu nhập và việc làm ổn định.
Các lĩnh vực hành động ưu tiên
- Xây dựng khung chính sách việc làm hợp nhất, dựa trên tinh thần tình hình cụ thể của Việt Nam, Công ước về Chính sách việc làm, năm 1964 (Số 122) và bao gồm:
+ tăng cường hệ thống quản lý và thông tin thị trường lao động
+ tăng cường năng lực thể chế để xây dựng và thực thi các chính sách và chương trình thị trường lao động ở cấp quốc gia, cấp tỉnh, sử dụng các công cụ, phương pháp lậun của ILO, bao gồm cả việc sử dụng các mô hình phát triển kinh tế địa phương;
+ khuyến khích tham khảo ba bên về đánh giá nhu cầu thị trường lao động và phát triển kỹ năng;
+ khuyến khích việc lồng ghép các chính sách vì người nghèo vào các chính sách và chiến lược vĩ mô, thông qua các hoạt động nghiên cứu và tăng cường năng lực.
- Xây dựng và thực thi chính sách chương trình hành động quốc gia về việc làm cho thanh niên trên cơ sở Sáng kiến Mạng lưới việc làm cho thanh niên của Liên hợp quốc, Ngân hàng thế giới và Tổ chức lao động quốc tế.
- Tạo việc làm thông qua việc phát triển các doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ, bao gồm:
+ tăng cường năng lực cấp tỉnh và cấp huyện trong việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cải thiện dịch vụ phát triển doanh nghiệp, tăng cường hợp tác nhà nước với tư nhân và sử dụng các chiến lược phát triển kinh tế địa phương.
+ xúc tiến, phổ biến và tăng cường năng lực của các đối tác ba bên trong việc sử dụng các công cụ và chiến lược của ILO về phát triển doanh nghiệp, hợp tác xã và kinh doanh.
+ phổ biến thông tin về Khuyến nghị số 189 của ILO về Tạo việc làm trong các Doanh nghiệp vừa và nhỏ (1998) và Khuyến nghị số 193 về xúc tiến Hợp tác xã (2002).
- Phát triển phong trào hợp tác xã thông qua xây dựng chính sách, nghiên cứu và đào tạo.
- Xúc tiến việc làm cho phụ nữ ở các khu vực nông thôn và phi chính thức thông qua việc triển khai các hoạt động thí điểm để từ đó rút ra các bài học thực tiễn.
- Xây dựng và tìm nguồn tài trợ cho chương trình hoạt động về quản lý và bảo vệ người lao động làm việc ở nước ngoài.
- Nghiên cứu và tuyên truyền vận động việc cải thiện tình hình việc làm cho lao động di cư trong nước.
2.3. An sinh xã hội và An toàn vệ sinh lao động
Các thách thức chính
Ở các khu vực thành thị và ngoại ô, việc đóng cửa hay cổ phần hóa và tái cơ cấu các doanh nghiệp quốc doanh, sự phát triển nhanh chóng của khu vực tư nhân và cụ thể hơn là các hợp tác xã, doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ trong khu vực này; sự gia tăng của khu vực kinh tế phi chính thức; và sự di chuyển lao động từ các vùng nông thôn, tất cả đều đang tác động tới phạm vi, cơ cấu và chức năng của các hệ thống an sinh xã hội hiện hành.
Trong khi việc làm là con đường thoát nghèo hiệu quả nhất, thì các biện pháp quản lý rủi ro và nhu cầu đổi mới các hình thức bảo hiểm xã hội cũng như mạng lưới an sinh xã hội của các cơ quan có thẩm quyền là hết sức quan trọng để bảo vệ những người nghèo nhất và dễ bị tổn thương nhất. Tương tự như vậy, mặc dù việc sản xuất các loại nông sản hàng hóa xuất khẩu và chăn nuôi gia súc đã mở ra nhiều cơ hội tạo thu nhập và việc làm cho người dân nông thôn, song mức độ rủi ro cũng tăng lên do sự biến động của giá cả và các rủi ro khác. Điều này đã khẳng định nhu cầu cần mở rộng đối tượng thụ hưởng từ hệ thống an sinh xã hội. Ngoài ra, việc tiếp cận tín dụng quản lý rủi ro cũng rất cần thiết.
Điều kiện làm việc và các tiêu chuẩn an toàn vệ sinh lao đông đang đứng trước những thách thức do sự xuất hiện của các phương thức sản xuất mới, đặc biệt là trong nông nghiệp và do sự gia tăng của các doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ, nơi mà các tiêu chuẩn an toàn thường chưa được thể hiện đầy đủ. Đồng thời, các cơ quan thanh tra lao động đang quá tải và không thể giám sát đầy đủ hoặc thực hiện việc cưỡng chế thực thi pháp luật.
Các mục tiêu
1. Hoàn thiện chính sách bảo hiểm xã hội và xác định độ bao phủ của bảo hiểm xã hội.
2. Từng bước mở rộng đối tượng bảo hiểm xã hội và tiến hành các biện pháp đổi mới nhằm bảo vệ những người không thuộc khu vực chính thức.
3. Giới thiệu rộng rãi các khái niệm và Hệ thống quản lý an toàn vệ sinh lao động tại Việt Nam trong khu vực nông nghiệp, các doanh nghiệp nhỏ, các hợp tác xã và tăng cường mạng lưới an toàn vệ sinh lao động để hỗ trợ văn hóa an toàn lao động tại nơi làm việc.
4. Tiến hành đào tạo cho các nhà quản lý doanh nghiệp, đại diện công đoàn và các chuyên gia an toàn vệ sinh lao động về các vấn đề an toàn vệ sinh lao động và hỗ trợ cho việc giới thiệu nội dung này tại các doanh nghiệp trên cả nước. Tự giám sát được coi là một phần không thể tách rời của an toàn vệ sinh lao động trong các doanh nghiệp Việt Nam.
Các lĩnh vực hành động ưu tiên
- Mở rộng mức độ bao phủ của hệ thống an ninh xã hội tới người lao động hiện chưa nằm trong diện được bảo hiểm theo quy định hiện hành, và việc thực thi chính sách này thông qua các hoạt động sau:
+ Thực hiện một cách có hiệu quả luật bảo hiểm xã hội mới, bảo hiểm thất nghiệp và các Nghị định hướng dẫn thi hành;
+ Mở rộng đối tượng an sinh xã hội cho lao động trong khu vực nông thôn và phi chính thức thông qua các chương trình thí điểm về an sinh xã hội và quản lý rủi ro;
+ Tiến hành đào tạo cho các cán bộ được lựa chọn của Cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam và Vụ Bảo hiểm xã hội;
+ Tiến hành đào tạo cho các tổ chức của người lao động và người sử dụng lao động về quản lý và giám sát việc triển khai an sinh xã hội ở cấp doanh nghiệp nhằm bảo vệ quyền lợi của các thành viên.
- Giới thiệu Chương trình Quốc gia về An toàn vệ sinh lao động và việc thực hiện Chương trình này trên toàn quốc. Hoạt động có thể bao gồm:
+ xem xét, phê chuẩn và thực thi Công ước số 184 về An toàn vệ sinh lao động trong nông nghiệp (2001) và Khuyến nghị số 192;
+ tổ chức các chiến dịch tuyên truyền về an toàn vệ sinh lao động, thông qua các Tuần lễ an toàn quốc gia;
+ giới thiệu và lồng ghép các hướng dẫn về Hệ thống quản lý an toàn vệ sinh lao động (OSH-MS 2001) của ILO vào các chiến lược quản lý doanh nghiệp;
+ hỗ trợ thực hiện an toàn vệ sinh lao động tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua chương trình đào tạo, huấn luyện về Cải thiện Điều kiện Làm việc trong các doanh nghiệp Vừa và Nhò (WISE).
+ hỗ trợ thực hiện An toàn vệ sinh lao động trong nông nghiệp thông qua việc sử dụng rộng rải Chương trình cải thiện điều kiện làm việc và xây dựng tình làng nghĩa xóm (WIND);
+ đào tạo, huấn luyện về an toàn vệ sinh lao động cho các cán bộ quản lý doanh nghiệp, người lao động, các nhà quản lý lao động và cán bộ làm công tác an toàn vệ sinh lao động.
+ hỗ trợ thực hiện an toàn vệ sinh lao động trong các hợp tác xã thông qua đào tạo, huấn luyện về Cải thiện điều kiện làm việc và Xây dựng tình làng nghĩa xóm.
2.4. Các nhóm đối tượng yếu thế
Các thách thức chính
Trong khi Việt Nam đã ban hành và đưa vào triển khai một số luật, chính sách và các kế hoạch hành động nhằm ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em, thì vẫn còn có khoảng cách giữa luật pháp và việc triển khai thực hiện các luật này. Việc gia tăng di cư từ nông thôn ra thành thị và sự xuất hiện của nền kinh tế phi chính thức có thể dẫn tới việc gia tăng nguy cơ trẻ em bị buôn bán và bóc lột lao động. Trong khi chính sách và luật pháp đã và đang được triển khai thực hiện, thì các hoạt động tuyên truyền vận động và hỗ trợ trực tiếp cũng rất cần thiết để ngăn chặn vấn đề ngay từ đầu. Các đối tác ba bên của ILO có thể đóng vai trò then chốt trong việc ngăn ngừa và xóa bỏ tất cả các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất.
Các nhóm yếu thế khác kể cả người lao động bị nhiễm HIV/AIDS là những người thường xuyên phải chịu áp lực từ sự kỳ thị và phân biệt đối xử tại nơi làm việc và thậm chí quyền mưu sinh của họ cũng bị đe dọa, bất chấp những quy định của pháp luật. Trong lĩnh vực này, các đối tác ba bên của ILO có thể đóng vai trò then chốt trong việc ngăn chặn sự lây lan của đại dịch thông qua phổ biến thông tin, tuyên truyền vận động và xây dựng các chính sách tại nơi làm việc để hỗ trợ những người lao động bị nhiễm bệnh và gia đình của họ.
Tuy rất nhiều chính sách, cơ cấu và sáng kiến đã được thực hiện để hỗ trợ người tàn tật, nhưng vẫn cần phải làm nhiều hơn nữa để việc thực thi mang lại hiệu quả và hỗ trợ những lao động này hòa nhập vào các hoạt động kinh tế chung, đặc biệt là những lao động bị tàn tật nặng. Cần có thêm đóng góp về chuyên môn và sự cam kết của các đối tác ba bên trong việc đối xử bình đẳng và tạo cơ hội công bằng cho tất cả lao động để xóa bỏ mọi rào cản mà người tàn tật đang phải đối mặt trong quá trình tiếp cận việc làm bền vững. Đặc biệt cần nâng cao nhận thức tích cực về các quyền, khả năng đóng góp của người tàn tật và xóa bỏ những trở ngại về mặt chính sách và quan niệm ngăn cản sự tham gia đầy đủ của người tàn tật.
Các mục tiêu
- Thực hiện Kế hoạch hành động quốc gia nhằm ngăn ngừa và xóa bỏ nạn buôn bán trẻ em và các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất.
- Các tổ chức của Người sử dụng lao động và Người lao động xây dựng chính sách về HIV/AIDS tại nơi làm việc.
- Tiến hành hoạt động hỗ trợ người lao động tàn tật tiếp cận đào tạo nghề và các hoạt động kinh tế chung.
Các lĩnh vực hành động ưu tiên
- Xây dựng và thực thi chương trình hành động Quốc gia về ngăn ngừa và xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất thông qua hỗ trợ xây dựng luật pháp, nghiên cứu, đào tạo, tuyên truyền vận động và can thiệp trực tiếp.
- Các hoạt động riêng và phối hợp của tổ chức người lao động, người sử dụng lao động và các nhà quản lý doanh nghiệp đề cập đến những vấn đề HIV/AIDS tại nơi làm việc, sử dụng Bộ quy tắc thực hành của ILO về HIV/AIDS tại nơi làm việc như một cẩm nang hướng dẫn.
- Hoàn thành đánh giá ba bên cộng (bao gồm các đại diện của người tàn tật) về thực trạng đào tạo và việc làm hiện nay của người tàn tật, cần lưu ý tới những chính sách, cơ cấu hỗ trợ, tuyên truyền vận động và dịch vụ, và xây dựng kế hoạch hành động chiến lược nhằm loại bỏ các rào cản cũng như khuyến khích việc lồng ghép một cách phù hợp với các tiêu chuẩn lao động quốc tế như quy định tại Công ước số 159 về Tái thích ứng Nghề nghiệp và Việc làm (đối với người tàn tật) năm 1983, Khuyến nghị số 168, Công ước số 142 về Phát triển Nguồn nhân lực năm 1975 và Khuyến nghị số 195 năm 2004.
2.5. Các lĩnh vực hoạt động khác
Lồng ghép giới
Bình đẳng giới là một chủ đề xuyên suốt trong Khuôn khổ hợp tác này. Tiếp cận bình đẳng đối với giáo dục, đào tạo, cơ hội việc làm và các nguồn lực kinh tế (như đất đai và tín dụng) là những yếu tố quan trọng trong việc tăng cường bình đẳng giới và Khuôn khổ hợp tác sẽ đề cập đến những vấn đề này. Việc lồng ghép giới cũng sẽ được đề cập đến trong Khuôn khổ Hợp tác thông qua các hoạt động sau đây:
- Tăng cường năng lực cho các đối tượng thông qua đào tạo, tuyên truyền vận động và sử dụng các công cụ của ILO nhân phân tích giới và đánh giá về giới;
- Xây dựng mô hình thí điểm thông qua các chương trình và dự án hợp tác;
- Khuyến khích sự tham gia nhiều hơn của phụ nữ trong các cuộc họp, diễn đàn đối thoại xã hội, các thể chế ba bên, tổ chức của người lao động và người sử dụng lao động.
Khuôn khổ hợp tác là cơ sở tham chiếu để Chính phủ, các tổ chức của Người sử dụng lao động, Người lao động ở Việt Nam và ILO xây dựng chính sách và tổ chức thực hiện các hoạt động liên quan đến lĩnh vực lao động – xã hội, đồng thời sẽ được sử dụng cho mục tiêu xây dựng chương trình, kế hoạch và huy động vốn.
Việc huy động, quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển để thực hiện các chương trình hoặc các dự án được xây dựng trong Khuôn khổ hợp tác này sẽ tuân thủ các quy định của Chính phủ Việt Nam về quản lý và sử dụng các nguồn vốn Hỗ trợ Phát triển Chính thức (ODA) và/hoặc nguồn hỗ trợ từ các tổ chức phi chính phủ quốc tế.
Dựa trên các quy định này, Ủy ban Hỗn hợp ILO/Việt Nam bao gồm các đối tác ba bên (Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, các tổ chức Người sử dụng lao động và Người lao động) và các cơ quan điều phối viện trợ của Chính phủ sẽ hướng dẫn, giám sát việc thực hiện Khuôn khổ hợp tác và phối hợp để huy động nguồn lực cho các chương trình, dự án thuộc Khuôn khổ.
Các phiên họp thường kỳ sẽ được tổ chức để xác định các ưu tiên và lĩnh vực hợp tác kỹ thuật mới và hỗ trợ chính sách, đồng thời rà soát lại các kế hoạch hoạt động đã được triển khai, đánh giá tiến độ thực hiện, xem xét lại những vấn đề gặp phải và đưa ra những điều chỉnh cần thiết để đáp ứng các nhu cầu và sự phát triển mới. Các ưu tiên hoạt động cụ thể sẽ được đưa ra 2 năm một lần và sẽ được nêu rõ trong các kế hoạch hàng năm của các đối tác ba bên của ILO cũng như trong Chương trình hoạt động 2 năm của ILO.
Bên cạnh sự hỗ trợ của ILO thông qua ngân sách thường xuyên, nguồn lực dành cho các kế hoạch hoạt động 2 năm nói trên sẽ cần có sự hỗ trợ từ các nhà tài trợ. ILO sẽ hợp tác với các đối tác ba bên và các cơ quan có liên quan khác để huy động các nguồn lực khi cần.
Văn phòng ILO tại Việt Nam sẽ làm việc với Văn phòng Tiểu vùng Đông Á, Văn phòng Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương và các phòng ban kỹ thuật của Văn phòng tại Trụ sở chính để tư vấn chính sách và hợp tác kỹ thuật trong việc xây dựng và thực hiện Khuôn khổ hợp tác và xác định các vấn đề phát sinh có liên quan tới lĩnh vực lao động tại Việt Nam. Ngoài ra, Viện nghiên cứu Lao động Quốc tế ILO và Trung tâm đào tạo Quốc tế ILO tại Turin, Italia cũng sẽ tham gia hỗ trợ quá trình này.
Bất kỳ khác biệt nào trong việc giải thích Khuôn khổ hợp tác này cũng cần được giải quyết thông qua việc tham khảo ý kiến và sự thống nhất giữa tất cả các bên.
Khuôn khổ hợp tác được ký kết tại Hà Nội vào ngày mười hai tháng bảy năm hai ngàn không trăm linh sáu, được lập thành hai bản chính, mỗi văn bản được lập bằng tiếng Việt và tiếng Anh, các văn bản đều có giá trị pháp lý như nhau.
DƯỚI SỰ CHỨNG KIẾN CỦA CÁC BÊN, các đại diện có đầy đủ thẩm quyền dưới đây, đã ký Khuôn khổ hợp tác này,
THAY
MẶT |
THAY
MẶT |
THAY
MẶT |
THAY
MẶT CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
THAY
MẶT VĂN PHÒNG TỔ CHỨC LAO ĐỘNG QUỐC TẾ |
Văn bản số 33/2006/SL-LPQT về khuôn khổ hợp tác quốc gia giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Văn phòng Tổ chức Lao động quốc tế giai đoạn 2006 – 2010 về xúc tiến việc làm bền vững tại Việt Nam do Bộ Ngoại giao ban hành
Số hiệu: | 33/2006/SL-LPQT |
---|---|
Loại văn bản: | Điều ước quốc tế |
Nơi ban hành: | Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tổ chức Lao động Quốc tế |
Người ký: | Nguyễn Lương Trào |
Ngày ban hành: | 12/07/2006 |
Ngày hiệu lực: | Đã biết |
Tình trạng: | Đã biết |
Văn bản đang xem
Văn bản số 33/2006/SL-LPQT về khuôn khổ hợp tác quốc gia giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Văn phòng Tổ chức Lao động quốc tế giai đoạn 2006 – 2010 về xúc tiến việc làm bền vững tại Việt Nam do Bộ Ngoại giao ban hành
Chưa có Video