UỶ
BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI |
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số:249/BC-UBTVQH12 |
Hà Nội, ngày 18 tháng 6 năm 2009 |
BÁO CÁO
GIẢI TRÌNH, TIẾP THU, CHỈNH LÝ DỰ ÁN LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA CÁC LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN
Kính gửi: Các vị đại biểu Quốc hội,
Tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XII, các vị đại biểu Quốc hội đã thảo luận ở tổ (ngày 29/5/2009) và Hội trường (ngày 8/6/2009) về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản. Đã có 217 lượt ý kiến phát biểu ở tổ và 27 lượt ý kiến phát biểu tại Hội trường. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo tổng hợp ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, nghiên cứu nghiêm túc để tiếp thu, chỉnh lý Dự án Luật. Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự án Luật như sau:
1. Về sự cần thiết ban hành và quy trình xem xét, thông qua dự án Luật
Đa số các vị đại biểu Quốc hội đều nhất trí về việc cần phải sửa đổi, bổ sung một số điều ở một số luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc nhằm cải cách thủ tục, thúc đẩy tiến độ đầu tư xây dựng các dự án, công trình. Một số ý kiến tuy nhất trí về sự cần thiết ban hành Luật, nhưng cho rằng, vấn đề đầu tư xây dựng cơ bản liên quan đến nhiều luật, thời gian chuẩn bị còn ít, để bảo đảm chất lượng thì cần thêm thời gian nghiên cứu, xem xét, rà soát kỹ lưỡng, sửa đổi toàn diện các luật liên quan, do vậy, đề nghị xem xét, thông qua dự án Luật theo quy trình tại 2 kỳ họp thứ 5 và thứ 6. Cũng có ý kiến chưa tán thành việc sửa đổi, bổ sung này.
Về vấn đề này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo Quốc hội như sau:
Thực tế đã có nhiều văn bản luật điều chỉnh hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản được ban hành, ở những thời điểm khác nhau. Kết quả giám sát của Quốc hội tại kỳ họp thứ 4 cho thấy, hệ thống pháp luật về đầu tư xây dựng còn có những vướng mắc, thiếu tính thống nhất, đặc biệt là về quy trình, thủ tục đầu tư, dẫn tới việc hiểu và áp dụng pháp luật còn khác nhau. Đây là một trong những nguyên nhân trực tiếp làm chậm tiến độ, giảm hiệu quả đầu tư xây dựng các dự án, công trình sử dụng vốn nhà nước nói riêng và đầu tư xây dựng cơ bản nói chung trong những năm qua (số dự án chậm tiến độ năm 2005 chiếm 9,2% tổng số dự án thực hiện đầu tư trong năm; năm 2006 là 13,1%; năm 2007 là 14,8%, năm 2008 là 16,6%)[1].
Qua giám sát, nhiều bộ, ngành, địa phương, trong đó có các Đoàn đại biểu Quốc hội, nhiều doanh nghiệp đã kiến nghị cần khẩn trương rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật về xây dựng, đấu thầu, đất đai,… để giải quyết ngay những vấn đề vướng mắc, bức xúc đang đặt ra. Vì vậy, Quốc hội đã quyết định đưa Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2009 và trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ 5.
Những nội dung sửa đổi, bổ sung lần này chủ yếu tập trung vào việc xử lý các vấn đề về quy trình, thủ tục, đặc biệt là giai đoạn chuẩn bị đầu tư trong các luật liên quan trực tiếp đến đầu tư xây dựng cơ bản, nhằm đơn giản thủ tục đầu tư, giảm thời gian thẩm định, phê duyệt dự án, là những vấn đề bức xúc nhất, đã được các cơ quan chức năng và các hiệp hội rà soát và đã được tổng kết, đánh giá qua cuộc giám sát về đầu tư xây dựng cơ bản năm 2008 và giám sát về tình hình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2007. Việc dự án Luật sớm được thông qua sẽ trực tiếp góp phần đẩy nhanh tiến độ các dự án sử dụng các nguồn vốn kích cầu đầu tư nhằm chống suy giảm kinh tế ngay trong năm 2009, do vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội xem xét, thông qua dự án Luật tại kỳ họp này.
2. Về phạm vi sửa đổi, bổ sung của dự án Luật
Đa số ý kiến đều tán thành với phạm vi sửa đổi, bổ sung của dự án Luật. Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng, phạm vi điều chỉnh quá rộng, sửa đổi, bổ sung 6 luật, với nhiều điều khoản, có nội dung chưa thực sự cấp bách; đề nghị chỉ sửa đổi một số nội dung của Luật xây dựng và Luật đấu thầu; có ý kiến đề nghị cân nhắc việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai và Luật nhà ở trong dự án Luật này vì đã có quy định của Nghị quyết 07/2007/QH12 của Quốc hội, mặt khác những nội dung sửa đổi, bổ sung trong 2 Luật này không liên quan trực tiếp đến đầu tư XDCB. Một số ý kiến đề nghị ghép nội dung sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai và Luật nhà ở sang Luật sửa đổi, bổ sung Điều 126 của Luật nhà ở và Điều 121 của Luật đất đai.
Về các ý kiến trên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo như sau:
Chính phủ đã có Tờ trình số 95/TTr-CP ngày 25/5/2009 đề nghị sửa đổi, bổ sung các luật gồm: Luật xây dựng, Luật đấu thầu, Luật doanh nghiệp, Luật bảo vệ môi trường, Luật đất đai và Luật nhà ở. Tổng hợp lại, dự án Luật trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung nội dung của 25 điều; bãi bỏ 14 điều liên quan đến trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở quy định tại Luật Đất đai và Luật Nhà ở; các điều còn lại chỉ là chỉnh lý kỹ thuật liên quan đến việc thay thế tên “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” của Luật Đất đai, “Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở” của Luật nhà ở bằng tên giấy chung.
Về sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 19 và khoản 4 Điều 22 của Luật bảo vệ môi trường, có một số ý kiến tán thành quy định của dự thảo Luật để góp phần đẩy nhanh tiến độ lập, phê duyệt các dự án đầu tư XDCB. Tuy nhiên, đa số ý kiến cho rằng, môi trường là vấn đề bức xúc, quy định chặt chẽ như Luật hiện hành nhưng vẫn xảy ra nhiều vụ vi phạm, nay lại nới rộng hơn thì sẽ không thể kiểm soát được. Sau khi cân nhắc các loại ý kiến như trên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị không sửa đổi Điều 19 và Điều 22 của Luật bảo vệ môi trường trong dự án Luật này. Tuy nhiên, đề nghị Chính phủ chỉ đạo rà lại quy định của Luật bảo vệ môi trường để hướng dẫn áp dụng Luật, vừa bảo đảm yêu cầu bảo vệ môi trường, đồng thời tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư trong lập và trình phê duyệt các dự án.
Về lý do sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai và Luật nhà ở trong dự án Luật này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin được giải trình như sau:
Việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai và Luật Nhà ở là để thực hiện Nghị quyết số 07/2007/QH12 của Quốc hội về thống nhất cấp một loại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cùng với quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất trên cơ sở Luật đất đai, giao cho một cơ quan làm đầu mối thực hiện, đáp ứng nguyện vọng, mong muốn của tuyệt đại bộ phận cử tri cả nước và là vấn đề đã được bàn nhiều lần trong các phiên họp của Quốc hội. Mặt khác, đây cũng là nội dung có liên quan đến thủ tục đầu tư xây dựng cơ bản. Qua làm việc với các chủ đầu tư, Ban quản lý dự án và các doanh nghiệp, các ý kiến đều cho rằng việc thống nhất cấp một loại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và giao cho một cơ quan làm đầu mối thực hiện sẽ có điều kiện xác định chính xác hơn quyền của tổ chức, cá nhân, hạn chế tranh chấp có thể phát sinh, góp phần giải quyết những vướng mắc trong công tác đền bù, giải phóng mặt bằng nhằm thúc đẩy các dự án đầu tư xây dựng cơ bản, tạo điều kiện thực hiện các quyền của chủ đầu tư như quyền thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
Về ý kiến cho rằng, sửa đổi, bổ sung Luật đất đai và Luật nhà ở trong 2 dự án luật tại cùng một kỳ họp sẽ gây khó khăn cho việc tìm hiểu và áp dụng Luật, cần ghép nội dung sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai và Luật nhà ở về việc thống nhất cấp 1 loại giấy chứng nhận với nội dung sửa đổi, bổ sung Điều 126 Luật nhà ở và Điều 121 Luật đất đai. Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, Điều 92 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định “văn bản sửa đổi, bổ sung một số điều của văn bản quy phạm pháp luật được hợp nhất về mặt kỹ thuật với văn bản được sửa đổi, bổ sung”. Như vậy, sau khi được Quốc hội thông qua thì các điều khoản được sửa đổi, bổ sung sẽ được hợp nhất về mặt kỹ thuật vào văn bản luật gốc nên sẽ không ảnh hưởng đến việc tìm hiểu nội dung trong quá trình áp dụng luật.
Với những phân tích trên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin Quốc hội cho sửa đổi, bổ sung 5 luật như đã được chỉnh lý trong dự án Luật.
3. Về sửa đổi, bổ sung Luật xây dựng
Các vị đại biểu Quốc hội cơ bản tán thành với các nội dung đề xuất sửa đổi, bổ sung 8 điều của Luật xây dựng. Tuy nhiên, còn một số vấn đề có ý kiến khác nhau, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin tiếp thu, giải trình như sau:
- Về sửa đổi, bổ sung Điều 7. Năng lực hành nghề xây dựng, năng lực hoạt động xây dựng
Có ý kiến đề nghị bỏ khoản 2 quy định về năng lực hành nghề xây dựng đối với cá nhân và năng lực hoạt động xây dựng đối với tổ chức. Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, quy định về năng lực hành nghề xây dựng đối với cá nhân và năng lực hoạt động xây dựng đối với tổ chức đã được thể hiện rõ tại khoản 3 và khoản 4 Điều 7. Do đó, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, xin được bỏ khoản 2 Điều này và chỉnh sửa, làm rõ hơn nội dung tại khoản 3 và khoản 4 như trong dự thảo Luật.
Về ý kiến đề nghị làm rõ thế nào là trường hợp đặc biệt; bổ sung quy định về những cá nhân có năng lực hành nghề do tích lũy kinh nghiệm đã được kiểm chứng thực tế mà không qua đào tạo, quy định rõ về kinh nghiệm, đạo đức nghề nghiệp của cá nhân hành nghề xây dựng tại khoản 3... Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, trên thực tế hiện nay, có những cá nhân có tay nghề cao tham gia hoạt động xây dựng nhưng chỉ do tích lũy kinh nghiệm mà không qua đào tạo chính quy và không có xác nhận của tổ chức chuyên môn. Do đây chỉ là các trường hợp cá biệt, không có tính phổ biến nên việc giao Chính phủ quy định về trường hợp đặc biệt như dự thảo Luật chính là để tạo điều kiện cho các cá nhân này tiếp tục hành nghề xây dựng. Về tiêu chí đánh giá kinh nghiệm, đạo đức nghề nghiệp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, đây là những nội dung chi tiết, nên Luật chỉ quy định chung và để Chính phủ hướng dẫn cụ thể sẽ phù hợp hơn.
- Về sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 39. Thẩm định, quyết định đầu tư dự án đầu tư xây dựng công trình
Nhiều ý kiến đề nghị không sửa đổi khoản 2 Điều 39 về thẩm quyền quyết định đầu tư dự án, công trình quan trọng quốc gia theo hướng Thủ tướng Chính phủ chỉ quyết định đầu tư các dự án quan trọng quốc gia sử dụng vốn nhà nước sau khi được Quốc hội thông qua chủ trương; việc quyết định đầu tư các dự án, công trình quan trọng quốc gia khác sử dụng nguồn vốn khác do Chính phủ quy định; ngược lại, một số ý kiến tán thành việc sửa đổi như dự thảo Luật về thẩm quyền quyết định đầu tư các dự án, công trình quan trọng quốc gia.
Sau khi cân nhắc các loại ý kiến trên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị không sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 39 với lý do như đã nêu trong báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế và ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội.
- Về sửa đổi Điều 40. Điều chỉnh dự án đầu tư xây dựng công trình có sử dụng 30% vốn Nhà nước trở lên:
Đa số ý kiến tán thành quy định về các điều kiện và phân cấp trách nhiệm quyết định điều chỉnh dự án đầu tư xây dựng công trình; có một số ý kiến khác, như: đề nghị cần làm rõ vì sao sửa đổi quy định ‘‘yếu tố bất khả kháng’’ trong Luật hiện hành thành ‘‘sự kiện bất khả kháng’’ (điểm a, khoản 1) hoặc đề nghị bổ sung điều kiện khi có biến động giá cả, tỷ giá hối đoái, thay đổi cơ chế, chính sách của nhà nước; bổ sung quy định điều chỉnh dự án khi xuất hiện yếu tố làm cho dự án có hiệu quả thấp hơn (điểm b, khoản 1), hoặc điều chỉnh trong trường hợp công trình không phù hợp về địa điểm, kiến trúc, quy mô; đề nghị làm rõ thế nào là sự kiện bất khả kháng; quy định cụ thể hơn tiêu chí về quy mô thay đổi tại khoản 2; làm rõ chủ đầu tư được “chủ động” điều chỉnh ở mức độ nào. Ngược lại, có ý kiến cho rằng, khi xây dựng dự án thì đã được tính toán kỹ lưỡng, do vậy, cần cân nhắc có nên cho phép điều chỉnh không, vì dễ dẫn đến tiêu cực.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin được tiếp thu, giải trình về các ý kiến trên như sau:
Trong quá trình triển khai thực hiện dự án, nhiều trường hợp phải điều chỉnh do các yếu tố khách quan, chưa thể lường hết khi lập và phê duyệt dự án. Điều 40 của Luật hiện hành quy định rất chặt chẽ, theo đó, tất cả nội dung điều chỉnh đều phải trình người có thẩm quyền quyết định đầu tư xem xét, phê duyệt, làm cho việc điều chỉnh dự án mất nhiều thời gian hơn. Vì vậy, cần thiết sửa đổi Luật theo hướng làm rõ hơn các điều kiện được điều chỉnh dự án và phân cấp cho chủ đầu tư được phép tự quyết định điều chỉnh dự án trong một số trường hợp là để nhằm giảm thời gian xem xét điều chỉnh, phê duyệt lại dự án, đồng thời cũng tăng cường trách nhiệm của chủ đầu tư.
Về đề nghị làm rõ và quy định chi tiết trường hợp bất khả kháng: “Sự kiện bất khả kháng” được quy định về mặt nguyên tắc tại Khoản 1 Điều 161 Bộ luật dân sự. Trên thực tế, sự kiện bất khả kháng được các cơ quan chuyên ngành hướng dẫn theo từng lĩnh vực, trong đó có liệt kê cụ thể, nhưng cũng chưa thể bao quát hết các trường hợp[2]. Vì vậy, tiếp thu ý kiến đại biểu, xin được quy định liệt kê chi tiết hơn và thể hiện trong dự thảo Luật về sự kiện bất khả kháng như sau:
“a) Do ảnh hưởng của động đất, bão, lũ, lụt, sóng thần, hỏa hoạn, địch họa hoặc sự kiện bất khả kháng khác;”.
Về đề nghị bổ sung quy định điều chỉnh dự án khi xuất hiện yếu tố làm cho dự án có hiệu quả thấp hơn: 3 trường hợp quy định tại khoản 1 của dự thảo Luật quy định điều chỉnh dự án do bị ảnh hưởng bởi yếu tố bất khả kháng nằm ngoài dự liệu của chủ đầu tư và người có thẩm quyền quyết định đầu tư; ngoài các trường hợp trên, dự thảo Luật không quy định cho phép điều chỉnh dự án khi xuất hiện yếu tố làm cho dự án có hiệu quả thấp hơn là để ràng buộc chủ đầu tư và người có thẩm quyền quyết định đầu tư phải tính toán kỹ khi lập và thẩm định, phê duyệt dự án phải bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn, nếu không sẽ có tình trạng lạm dụng điều chỉnh dự án tràn lan. Do vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị không bổ sung trường hợp này.
Về ý kiến đề nghị bổ sung trường hợp điều chỉnh dự án đầu tư xây dựng công trình do biến động bất thường của giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, tỷ giá hối đoái hoặc do Nhà nước ban hành các chế độ, chính sách mới: Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, khi có biến động như đã nêu trên có thể dẫn đến 2 trường hợp: điều chỉnh dự toán nhưng không làm vượt tổng mức đầu tư thì chủ đầu tư được phép tự quyết định điều chỉnh dự án; trường hợp điều chỉnh dự toán mà làm vượt tổng mức đầu tư thì chủ đầu tư phải báo cáo người quyết định đầu tư quyết định điều chỉnh dự án. Thực tế thì giá cả thị trường thường có biến động theo mức độ khác nhau. Nếu ghi cụ thể điều kiện này trong Luật thì có thể xảy ra tình trạng chờ đợi để được điều chỉnh, làm kéo dài thời gian thực hiện dự án hoặc sẽ có tình trạng lạm dụng việc thay đổi giá cả yêu cầu được điều chỉnh dự án... Do đó, để có cơ sở pháp lý cho phép điều chỉnh với từng dự án cụ thể trong điều kiện biến động thị trường như đã nêu trên thì Dự thảo Luật cần có quy định mang tính nguyên tắc về vấn đề này và giao Chính phủ quy định cụ thể về các trường hợp khác cần được điều chỉnh. Theo đó xin đề nghị bổ sung thêm điểm d, khoản 1 Điều này như sau:
“d) Các trường hợp khác theo quy định của Chính phủ.“
- Về bổ sung Điều 40a. Giám sát, đánh giá dự án đầu tư xây dựng công trình
Về ý kiến đề xuất cần nhấn mạnh việc giám sát, đánh giá chất lượng công trình, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, vấn đề này đã được quy định tại các điều 87, 88, 89 và 90 của Luật Xây dựng. Về đề nghị cần quy định rõ trong Luật chế tài thực hiện giám sát: đây là các nội dung cần quy định rất chi tiết, do vậy, nội dung này nên giao Chính phủ quy định cụ thể. Về ý kiến đề nghị bổ sung quy định về giám sát của cộng đồng, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, nội dung Điều này chỉ quy định thẩm quyền thực hiện giám sát, đánh giá của cơ quan nhà nước, việc giám sát của cộng đồng đã được quy định ở các văn bản pháp luật khác[3]. Do vậy, xin không bổ sung nội dung này vào dự thảo Luật.
- Về sửa đổi Điều 43 về quản lý chi phí dự án đầu tư xây dựng công trình:
Khoản 2 Điều này được dự kiến sửa đổi theo hướng giao các cơ quan nhà nước quản lý về đầu tư xây dựng, các tổ chức xã hội- nghề nghiệp công bố định mức, chỉ tiêu kinh tế- kỹ thuật để chủ đầu tư tham khảo làm căn cứ xác định chi phí đầu tư. Có ý kiến tán thành, tuy nhiên, nhiều ý kiến không tán thành quy định này, vì cho rằng không phù hợp thực tế, không rõ về trách nhiệm, đề nghị cần có biện pháp nâng cao năng lực của các cơ quan nhà nước. Ủy ban Thường vụ Quốc hội, tiếp thu ý kiến các vị đại biểu Quốc hội và đề nghị không quy định trong Luật về giao các tổ chức xã hội- nghề nghiệp được công bố định mức, chỉ tiêu kinh tế- kỹ thuật. Tuy nhiên, để tranh thủ và phát huy được vai trò của các tổ chức xã hội-nghề nghiệp, đề nghị Chính phủ cần có quy định hướng dẫn để các tổ chức này được tham gia xây dựng các định mức, chỉ tiêu kinh tế-kỹ thuật trước khi công bố.
- Về sửa đổi, bổ sung Điều 54. Các bước thiết kế xây dựng công trình và Điều 59. Thẩm định, phê duyệt thiết kế xây dựng công trình:
Có ý kiến cho rằng, đối với nguồn vốn nhà nước thì việc thực hiện đủ các bước thiết kế xây dựng công trình đã bao gồm các nội dung của cấp phép xây dựng; đối với nguồn vốn tư nhân, thì chỉ cần xin giấy phép xây dựng là đủ, không cần thẩm định thiết kế cơ sở. Vì vậy, cần quy định rõ ràng để tránh trùng lặp khi thẩm tra thiết kế cơ sở và cấp phép xây dựng.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, quy định người có thẩm quyền quyết định đầu tư (chính là chủ đầu tư trong trường hợp dự án của tư nhân) tự chịu trách nhiệm về việc thẩm định thiết kế cơ sở cũng như các nội dung khác của dự án khi thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình tại khoản 2 Điều 59 cùng với quy định tại Điều 62 về giấy phép xây dựng của Luật xây dựng hiện hành đã thể hiện được nguyên tắc nói trên.
Đoàn ĐBQH Thành phố Hồ Chí Minh trong công văn số 230/ĐĐB-TH ngày 2/6/2009 góp ý về dự án Luật cho rằng, dự thảo Luật được sửa đổi như quy định trong Nghị định số 12/2009/NĐ-CP[4] ngày 12/2/2009 sẽ làm xuất hiện những bất cập trên thực tế, làm phát sinh chi phí, tốn kém thời gian không cần thiết, cụ thể là khi lập thiết kế cơ sở kèm theo dự án, nếu cơ quan thẩm định dự án hay cơ quan được hỏi ý kiến về thiết kế cơ sở chỉ cần sửa 1 tiêu chí nào đó (ví dụ khoảng lùi các phía, mật độ, hệ số sử dụng đất, chỗ đậu xe,…) dẫn đến thay đổi diện tích sàn xây dựng thì toàn bộ dự án phải “làm lại gần như từ đầu”, gây tốn kém vật chất và thời gian, đặc biệt với dự án lớn.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, nếu quy định như trong dự thảo Luật sẽ có thể dẫn đến khi triển khai thực tế thì người có thẩm quyền quyết định đầu tư vẫn phải xin ý kiến cơ quan quản lý nhà nước về thiết kế cơ sở, do đó có thể xảy ra trường hợp như ý kiến Đoàn ĐBQH TPHCM đã nêu. Do đó, xin bổ sung quy định theo hướng người có thẩm quyền quyết định đầu tư không bắt buộc phải lấy ý kiến các cơ quan có liên quan về thiết kế cơ sở mà chỉ lấy ý kiến nếu thấy cần thiết. Ngoài ra, xin chỉnh sửa kỹ thuật tại 2 điều này (chuyển nội dung khoản 2 Điều 54 xuống khoản 2 Điều 59) để làm rõ hơn vấn đề các đại biểu nêu và thể hiện lại khoản 2 Điều 59 như trong dự thảo Luật như sau:
“2. Người quyết định đầu tư tự chịu trách nhiệm về việc thẩm định thiết kế cơ sở và các nội dung khác của dự án khi thẩm định dự án đầu tư xây dựng công trình để phê duyệt dự án; trong trường hợp cần thiết, người có thẩm quyền quyết định đầu tư gửi hồ sơ lấy ý kiến các cơ quan liên quan về thiết kế cơ sở.
Trong nội dung phê duyệt dự án phải xác định rõ các giải pháp thiết kế cơ sở cần tuân thủ và các giải pháp thiết kế cơ sở cho phép chủ đầu tư được thay đổi trong các bước thiết kế tiếp theo.”
- Về sửa đổi, bổ sung Điều 55. Thi tuyển thiết kế kiến trúc công trình xây dựng
Đa số ý kiến tán thành sửa đổi Điều này theo hướng chỉ quy định bắt buộc thi tuyển thiết kế kiến trúc công trình xây dựng đối với công trình công cộng có quy mô lớn, có yêu cầu kiến trúc đặc thù như đã được thiết kế tại khoản 2; đối với các công trình khác thì nên để chủ đầu tư quyết định. Có ý kiến đề nghị làm rõ thế nào là công trình công cộng có quy mô lớn, có yêu cầu kiến trúc đặc thù.
Tiếp thu ý kiến trên, sau khi rà soát lại, để cho rõ hơn, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin chỉnh lý Điều 55 của dự thảo Luật theo hướng các công trình công cộng có quy mô lớn, có yêu cầu kiến trúc đặc thù thì bắt buộc phải tổ chức thi tuyển hoặc tuyển chọn phương án thiết kế kiến trúc, việc lựa chọn phương thức cụ thể do người quyết định đầu tư quyết định. Đối với các công trình khác, việc thi tuyển hoặc tuyển chọn phương án thiết kế kiến trúc do chủ đầu tư quyết định.
4. Về sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu thầu
- Quy định về chỉ định thầu (Điều 20):
Về vấn đề này, có các loại ý kiến như sau: Cần quy định cụ thể về hạn mức giá trị gói thầu được chỉ định thầu trong Luật, không nên giao Chính phủ quy định; cần có quy định riêng về chỉ định thầu đối với các dự án ở vùng sâu, vùng xa; cho phép chỉ định thầu đối với một số công trình đặc thù, đối với hàng hóa, phụ tùng thay thế phục vụ sản xuất kinh doanh; quy định chặt chẽ hơn tiêu chí chỉ định thầu.
Về các vấn đề nêu trên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin được giải trình như sau:
Việc giao cho Chính phủ quy định cụ thể nội dung này trong Nghị định nhằm tạo sự chủ động và linh hoạt ứng phó khi thị trường thay đổi. Nếu quy định cụ thể giá trị gói thầu được chỉ định thầu trong Luật thì khi cần thiết thay đổi sẽ phải chờ đợi sửa đổi Luật và như vậy sẽ ảnh hưởng nhiều đến tiến độ dự án hoặc các vấn đề khác. Vì vậy, các trường hợp cụ thể, tiêu chí đối với gói thầu, dự án được áp dụng chỉ định thầu như các gói thầu ở vùng sâu, vùng xa, gói thầu mang tính chất đặc thù…sẽ được quy định trong Nghị định để tạo sự linh hoạt khi cần thay đổi chính sách cho phù hợp với chủ trương phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Để tránh chỉ định thầu tràn lan, khoản 2 Điều 20 Luật đấu thầu hiện hành đã quy định: Khi thực hiện chỉ định thầu, phải lựa chọn một nhà thầu được xác định là có đủ năng lực và kinh nghiệm đáp ứng các yêu cầu của gói thầu và phải tuân thủ quy trình thực hiện chỉ định thầu do Chính phủ quy định. Do vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị giữ như dự thảo Luật.
Về đề nghị bỏ quy định về so sánh hiệu quả giữa áp dụng hình thức chỉ định thầu và đấu thầu; quy định đặc thù về đấu thầu đối với dự án xây dựng-chuyển giao (BT), Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, dự thảo quy định phân cấp mạnh hơn cho người có thẩm quyền được quyền quyết định về hình thức lựa chọn nhà thầu (gồm cả hình thức chỉ định thầu) đối với từng gói thầu cụ thể, trong khi đó chỉ định thầu là hình thức hạn chế cạnh tranh. Do vậy, quy định như dự thảo Luật để tạo cơ sở pháp lý cho Nghị định hướng dẫn theo hướng: khi trình người có thẩm quyền phê duyệt, chủ đầu tư cần giải trình rõ hiệu quả của việc chỉ định thầu đối với gói thầu cụ thể đó so với việc tổ chức đấu thầu nhằm bảo đảm hiệu quả kinh tế, tính công bằng, minh bạch và hạn chế chỉ định thầu tràn lan.
Về ý kiến đề nghị làm rõ nội hàm của khái niệm gói thầu có tính chất bí mật quốc gia, cấp bách vì lợi ích quốc gia, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, nội hàm của khái niệm "bí mật quốc gia" đã được quy định cụ thể ở Pháp lệnh số 62-LCT/HĐNN8 ngày 28/10/1991 về bảo vệ bí mật nhà nước; tiêu chí gói thầu "cấp bách vì lợi ích quốc gia" xin được cụ thể hóa trong Nghị định của Chính phủ. Còn việc chỉ định thầu đối với dự án BT được điều chỉnh theo quy định của pháp luật về đầu tư. Vì vậy, xin được chỉnh sửa kỹ thuật và thể hiện như trong dự thảo Luật.
- Quy định về xử lý vi phạm (Điều 12 và Điều 75)
Có ý kiến cho rằng, quy định của Luật Đấu thầu hiện hành về xử lý vi phạm đã rõ, xảy ra tiêu cực là do người thực hiện không đúng; ý kiến khác cho rằng, quy định chế tài đối với nhà thầu như hiện nay còn quá nhẹ, do đó, đề nghị cá nhân, tổ chức bị phạt cảnh cáo 2 lần liên tục sẽ bị cấm tham gia hoạt động đấu thầu thay vì quy định 3 lần như Dự thảo; bổ sung thêm trường hợp Chủ đầu tư trì hoãn không bảo đảm tiến độ đầu tư theo quy định; cần quy định cách thức theo dõi số lần vi phạm. Ngoài ra, có ý kiến đề nghị không cần quy định việc xử lý vi phạm đối với hành vi sử dụng lao động nước ngoài khi lao động trong nước có đủ khả năng thực hiện và đáp ứng vì đã được quy định trong văn bản pháp luật khác.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin được giải trình như sau:
- Luật Đấu thầu và các văn bản hướng dẫn hiện hành đã quy định tương đối rõ về các hình thức, nội dung xử lý vi phạm, đủ mạnh để xử lý tổ chức, cá nhân vi phạm. Cụ thể là: tổ chức, cá nhân bị phạt cảnh cáo 5 lần liên tục thì bị cấm tham gia đấu thầu trên toàn quốc; chủ đầu tư, người có thẩm quyền phải có trách nhiệm gửi thông tin về các tổ chức, cá nhân bị xử lý vi phạm để đăng tải công khai trên Báo Đấu thầu và trang thông tin điện tử về đấu thầu nhằm giúp các chủ đầu tư trên toàn quốc theo dõi được thông tin nhà thầu vi phạm để loại bỏ nhà thầu đó trong gói thầu của mình[5].
Tuy nhiên, xuất phát từ yêu cầu thực tế, Dự thảo Luật đã bổ sung thêm 04 hành vi cụ thể sẽ bị xử lý vi phạm về đấu thầu (03 hành vi bị cảnh cáo và 01 hành vi bị cấm tham gia đấu thầu) là những hành vi xảy ra khá phổ biến trong đấu thầu thời gian qua. Dự thảo cũng quy định tổ chức, cá nhân bị phạt cảnh cáo ‘từ 03 lần trở lên’ sẽ bị cấm tham gia đấu thầu thay vì ‘05 lần liên tục’ như quy định hiện hành nhằm tăng chế tài xử lý vi phạm và tránh việc cố tình hiểu lầm dẫn đến áp dụng sai quy định của pháp luật. Tuy nhiên, sau khi rà soát lại Điều này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, nếu tổ chức, cá nhân vi phạm nhiều lần nhưng không đủ 3 lần liên tục thì sẽ lách được quy định này. Do vậy, xin được chỉnh sửa lại điểm c khoản 1 Điều 75 dự thảo Luật như sau:
“c) Cấm tham gia hoạt động đấu thầu đối với tổ chức, cá nhân vi phạm quy định tại Điều 12 của Luật này hoặc có từ ba hành vi vi phạm trở lên bị cảnh cáo theo quy định tại điểm a khoản này.”
- Về ý kiến đề nghị bổ sung chế tài xử phạt đối với trường hợp chủ đầu tư trì hoãn triển khai thực hiện dự án dẫn đến không bảo đảm tiến độ đầu tư, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, trách nhiệm và nghĩa vụ của chủ đầu tư được quy định trong hợp đồng của từng gói thầu cụ thể. Luật cũng đã có quy định chế tài xử phạt đối với trường hợp chủ đầu tư không bảo đảm thời gian trong đấu thầu theo quy định của Luật. Do vậy, không cần thiết bổ sung nội dung nêu trên vào Dự thảo để tránh trùng lặp.
- Đối với vấn đề lao động nước ngoài, Luật Đấu thầu hiện hành đã có quy định hồ sơ mời thầu phải có yêu cầu cụ thể và tiêu chuẩn đánh giá về nhân sự đối với từng gói thầu và sau khi nhà thầu nước ngoài trúng thầu phải gửi thông tin đến Bộ, Sở chuyên ngành để theo dõi và quản lý. Ngoài ra, nhà thầu nước ngoài trúng thầu còn phải tuân thủ quy định của các Luật chuyên ngành về vấn đề này. Tuy nhiên Luật chưa quy định chế tài xử lý trong trường hợp vi phạm, nên có nhiều chủ đầu tư không coi trọng vấn đề này, dẫn đến tình trạng khá nhiều lao động nước ngoài, đặc biệt là lao động phổ thông vào Việt Nam làm những công việc mà lao động trong nước hoàn toàn có đủ khả năng thực hiện. Để khắc phục tình trạng này, dự thảo Luật bổ sung nội dung này vào các hành vi bị cấm tại Điều 12 để có biện pháp xử lý kịp thời nhằm góp phần ngăn chặn tình trạng nêu trên trong lĩnh vực đấu thầu. Do vậy, xin được giữ như dự thảo Luật trình Quốc hội.
Về những nội dung khác:
- Có ý kiến cho rằng Điều 40 Dự thảo quy định "Giá hợp đồng sau điều chỉnh không dẫn đến làm tăng tổng mức đầu tư được duyệt, trừ trường hợp được người có thẩm quyền cho phép" là không rõ ràng.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, quy định này nhằm xử lý trường hợp giá hợp đồng sau điều chỉnh làm tăng tổng mức đầu tư đã duyệt, đây được coi là một tình huống trong đấu thầu và thuộc thẩm quyền xem xét, quyết định của người quyết định đầu tư và phù hợp với việc sửa đổi Điều 40 của Luật Xây dựng. Tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, xin làm rõ hơn chủ thể có thẩm quyền cho phép tại khoản 2 Điều 57 là người có thẩm quyền quyết định đầu tư và chỉnh sửa như trong dự thảo Luật.
- Về ý kiến cho rằng, cần quy định riêng một điều trong dự thảo Luật về các gói thầu đơn giản, quy mô nhỏ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, quy định về trường hợp đặc biệt khác được chỉ định thầu theo quy định của Chính phủ tại điểm đ khoản 1 Điều 20 đã thể hiện được yêu cầu này. Vì vậy, xin Quốc hội cho giữ như dự thảo Luật đã được chỉnh lý.
5. Về sửa đổi, bổ sung Luật Doanh nghiệp
Về ý kiến đề nghị không sửa Điều 170 Luật doanh nghiệp quy định doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể lựa chọn đăng ký lại trong thời hạn 2 năm vì không liên quan trực tiếp đến đầu tư XDCB. Trường hợp doanh nghiệp không đăng ký lại thì chỉ được quyền hoạt động kinh doanh trong phạm vi ngành, nghề và thời hạn được ghi trong Giấy phép đầu tư.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, do việc hướng dẫn và đôn đốc các doanh nghiệp còn thiếu cụ thể, chưa kịp thời, nên thực tế còn nhiều doanh nghiệp chưa đăng ký lại và nay có nhu cầu đăng ký lại để có đủ điều kiện pháp lý được cấp Giấy chứng nhận đầu tư mới, mở rộng ngành nghề kinh doanh, nhưng thời hạn đăng ký lại đã hết vì Luật Doanh nghiệp có hiệu lực từ ngày 01/7/2006. Vì vậy, mặc dù đây không phải là vấn đề liên quan trực tiếp đến đầu tư xây dựng cơ bản nhưng thực tế đang là nguyện vọng của khá nhiều doanh nghiệp, đề nghị Quốc hội cho phép sửa đổi khoản 2, Điều 170 để kéo dài thời hạn đăng ký lại từ 2 năm lên 5 năm như đã trình để các doanh nghiệp có thêm 2 năm thực hiện đăng ký chuyển đổi.
6. Về sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai và Luật Nhà ở
Đa số ý kiến các vị đại biểu Quốc hội tán thành với nội dung sửa đổi, bổ sung 2 luật này, đồng thời có một số ý kiến đóng góp cụ thể. Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin tiếp thu, giải trình như sau:
- Về tên gọi của giấy chứng nhận: xin tiếp thu ý kiến đại biểu và sửa lại tên gọi của giấy là “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất” để thể hiện hai nội dung chủ yếu là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở đã được quy định trong Luật đất đai và Luật nhà ở, đồng thời, phù hợp với nội dung của Nghị quyết số 07/2007/QH12 về vấn đề này.
- Về sửa đổi, bổ sung quy định để thống nhất cấp một loại giấy, giao một cơ quan làm đầu mối thực hiện: Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, khoản 2 Điều 48 Luật đất đai được sửa đổi, bổ sung liên quan đến thẩm quyền cấp giấy chứng nhận và cơ quan đầu mối nhận hồ sơ thực hiện các thủ tục, do đó xin đưa nội dung này vào Điều 52 của Luật đất đai quy định về thẩm quyền cấp giấy chứng nhận. Đối với khoản 4 Điều 48, xin bổ sung quy định việc Chính phủ hướng dẫn về hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Theo quy định này, Chính phủ sẽ hướng dẫn cụ thể để xử lý các trường hợp phát sinh biến động, như khi thực hiện các quyền mà chỉ thay đổi về quyền sử dụng đất hoặc quyền sở hữu nhà ở hoặc quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất.
Về ý kiến cho rằng không nên quy định bắt buộc đăng ký quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, vì đất đai là sở hữu toàn dân, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là bắt buộc để ghi nhận quyền sử dụng đất hợp pháp đối với một thửa đất và xác định vào hồ sơ địa chính nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. Đối với nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, giấy tờ chứng minh sự tạo lập hợp pháp là giấy tờ gốc chứng nhận quyền sở hữu, do đó, không bắt buộc phải có chứng nhận của cơ quan quản lý nhà nước. Luật nhà ở hiện hành cũng quy định trong trường hợp có yêu cầu của chủ sở hữu nhà ở thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở cho họ. Vì vậy, tiếp thu ý kiến các vị đại biểu Quốc hội, xin quy định rõ chỉ khi chủ sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất có yêu cầu thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới xác nhận quyền sở hữu và ghi các nội dung chứng nhận quyền sở hữu này vào một giấy chung là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất như đã bổ sung tại khoản 1 Điều 48.
Đối với tên gọi của cơ quan đầu mối làm thủ tục cấp giấy chứng nhận, tiếp thu ý kiến các vị đại biểu Quốc hội, xin không quy định “Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất” trong dự thảo Luật mà quy định Cơ quan quản lý tài nguyên và môi trường ở cấp tỉnh và cấp huyện là đầu mối tiếp nhận hồ sơ và thực hiện các thủ tục trình Ủy ban nhân dân cùng cấp để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và giao Chính phủ quy định cụ thể về hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
- Về xử lý đối với các loại giấy chứng nhận liên quan đến quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đã được cấp trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành: Theo quy định của dự thảo Luật, các loại giấy chứng nhận đã cấp trước thời điểm Luật này có hiệu lực thi hành vẫn có giá trị pháp lý, không phải đổi lại nếu không có nhu cầu. Trường hợp người đã được cấp giấy chứng nhận có nhu cầu thì được đổi sang loại giấy mới theo quy định của Luật này mà không phải nộp lệ phí.
Đối với các loại giấy chứng nhận đã được cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình quản lý của địa phương như ý kiến đại biểu đã nêu (ví dụ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời), đã được xử lý trong quy định của pháp luật hiện hành, cụ thể là tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời đã được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 50 của Luật Đất đai, theo đó, người có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời có quyền thực hiện các giao dịch như chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp..., được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
- Về ý kiến đề nghị làm rõ các loại tài sản gắn liền với đất và khả năng cấp giấy chứng nhận đối với tài sản gắn liền với đất không phải là nhà ở, quản lý Nhà nước về nhà ở, cấp giấy chứng nhận cho nhà chung cư, trụ sở cơ quan, công trình quốc phòng, an ninh, xin được giải trình như sau:
+ Các loại tài sản gắn liền với đất đã được quy định cụ thể trong pháp luật hiện hành[6], gồm có nhà ở, công trình xây dựng (công trình công nghiệp, nhà máy, xí nghiệp, kho bãi, khu công nghiệp; công trình giao thông, thuỷ lợi, năng lượng...); vườn cây lâu năm, rừng cây.
+ Việc thống nhất cấp một loại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, giao một cơ quan làm đầu mối thực hiện vẫn bảo đảm quyền quản lý nhà nước về nhà ở của ngành xây dựng thông qua việc lập quy hoạch phát triển nhà ở, kế hoạch thực hiện và việc cấp giấy phép xây dựng nhà ở,ban hành các quy định, tiêu chuẩn quản lý chất lượng nhà ở, công tác thanh tra,... Hiện nay, nhiều Bộ đang thực hiện quản lý nhà nước đa ngành, đa lĩnh vực, nhiệm vụ chủ trì, phối hợp trong từng lĩnh vực cụ thể do Chính phủ quy định. Hơn nữa, việc chứng nhận quyền sở hữu nhà ở chỉ thực hiện khi có yêu cầu của chủ sở hữu.
+ Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với đất xây dựng nhà chung cư, nhà tập thể đã được quy định trong pháp luật đất đai và nhà ở hiện hành[7], cụ thể là đất xây dựng nhà chung cư và các công trình phục vụ nhà chung cư thuộc quyền sử dụng chung của tất cả các chủ sở hữu căn hộ nhà chung cư. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho các đối tượng sở hữu căn hộ theo hình thức sử dụng chung.
+ Theo quy định của pháp luật đất đai hiện hành thì đất xây dựng trụ sở cơ quan nhà nước được cấp giấy chứng nhận ghi tên cơ quan, tổ chức đó; đất xây dựng công trình quốc phòng, an ninh thì cấp giấy chứng nhận cho đơn vị vũ trang nhân dân đang trực tiếp sử dụng, đất xây dựng các dự án sản xuất được cấp giấy chứng nhận cho các chủ dự án.
+ Theo quy định của pháp luật hiện hành[8] thì cây rừng, cây lâu năm được ghi nhận trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và hồ sơ địa chính. Khoản 8 Điều 3 Luật bảo vệ và phát triển rừng cũng quy định quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng được ghi trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, trong hồ sơ địa chính.
Như vậy, pháp luật hiện hành đã quy định và thực tiễn các địa phương đã cấp chứng nhận đối với các tài sản khác gắn liền với đất khi có yêu cầu.
7. Về các vấn đề khác
- Có một số ý kiến đề nghị dự thảo Luật cần bổ sung quy định về giải phóng mặt bằng, là vấn đề có nhiều vướng mắc, liên quan trực tiếp đến đầu tư XDCB; bổ sung thêm phần đấu thầu trong Luật di sản văn hóa; sửa đổi, bổ sung các quy định trong khâu thanh quyết toán; bổ sung sửa đổi một số điều của Luật đầu tư.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng: đền bù, bồi thường giải phóng mặt bằng đang là vấn đề rất phức tạp, nhạy cảm, liên quan đến quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, định giá đất của Nhà nước, bồi thường, tái định cư cho người có đất bị thu hồi,… Hiện nay, các cơ quan của Chính phủ đã trình và Chính phủ chuẩn bị ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung các nghị định có liên quan về vấn đề này. Đối với một số vấn đề khác cần phải sửa đổi, bổ sung các luật có liên quan, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ tiếp tục chỉ đạo, nghiên cứu để trình Quốc hội vào thời gian tới đây mà không đưa vào dự án Luật này.
- Về thống nhất các khái niệm, thuật ngữ trong các luật:
Việc áp dụng thống nhất các khái niệm, thuật ngữ trong các luật có cùng nội dung nhưng có tên gọi khác nhau, như: Báo cáo đầu tư, Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, Dự án đầu tư xây dựng công trình, Báo cáo nghiên cứu khả thi, Báo cáo kinh tế - kỹ thuật, Chủ đầu tư, Chủ dự án... trong Luật Đấu thầu và Luật Xây dựng nhằm tạo thuận lợi hơn cho tổ chức, cá nhân trong việc trình, phê duyệt dự án đầu tư. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị giao Chính phủ hướng dẫn và xin chỉnh lý cụ thể như trong Điều 7 của dự thảo Luật.
- Về điều khoản thi hành:
Dự thảo Luật đề nghị thời điểm Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/8/2009 và nhiều đại biểu thống nhất thời hạn trên. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, dự thảo Luật có tới 7 điều giao Chính phủ quy định, với thời gian gấp như vậy khó chuẩn bị ban hành kịp các văn bản hướng dẫn thi hành Luật; do vậy đề nghị Luật này có hiệu lực thi hành từ đầu năm 2010. Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, như đã nêu ở trên, nhiều nội dung quy định trong Dự án Luật này đã được các cơ quan hữu quan chuẩn bị nhiều lần và đã chuẩn bị các điều kiện để thực hiện. Xuất phát từ sự cần thiết ban hành Luật nhằm tháo gỡ khó khăn, giải quyết ngay những vướng mắc trong quy trình, thủ tục đầu tư XDCB, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin Quốc hội cho được giữ thời điểm Luật có hiệu lực thi hành như đã trình; đồng thời, đề nghị Chính phủ sớm ban hành văn bản hướng dẫn thi hành đúng tiến độ.
Ngoài những vấn đề tiếp thu, giải trình trên đây, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo các cơ quan hữu quan rà soát và chỉnh lý về kỹ thuật văn bản và được thể hiện như trong Dự thảo Luật.
Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Trên đây là Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản. Uỷ ban thường vụ Quốc hội kính trình Quốc hội xem xét, quyết định.
|
TM.
UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI |
[1] Theo báo cáo số 76/CP-KTTH của Chính phủ ngày 15/5/2009 trinh Quốc hội tại kỳ họp thứ 5.
[2] Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 10/2/2009 của Chính phủ quy định về điều chỉnh dự án, điểm a khoản 1 Điều 14 quy định: bị ảnh hưởng bởi thiên tai như động đất, bão, lũ, lụt, sóng thần, địch họa hoặc các sự kiện bất khả kháng khác.
[3] Quyết định số 80/2005/QĐ-TTg ngày 18/4/2005 của Thủ tướng Chính phủ
[4] Điểm a, khoản 3 Điều 2 Nghị định số 12/2009/NĐ-CP quy định: Đối với các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước kể cả các dự án thành phần, Nhà nước quản lý toàn bộ quá trình đầu tư xây dựng từ việc xác định chủ trương đầu tư, lập dự án, quyết định đầu tư, lập thiết kế, dự toán, lựa chọn nhà thầu, thi công xây dựng đến khi nghiệm thu, bàn giao và đưa công trình vào khai thác sử dụng
[5] Khoản 4 Điều 66 Nghị định 58/2008/NĐ-CP; Khoản 3 Điều 75 của Luật và khoản 3 Điều 63 Nghị định 58/2008/NĐ-CP
[6] Điều 174 của Bộ Luật Dân sự, khoản 2 Điều 3 Luật Xây dựng, Khoản 8 Điều 3 Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Nghị định số 08/2000/NĐ-CP quy định về đăng ký giao dịch bảo đảm, Nghị định số 181/2004/NĐ-CP, Nghị định số 95/2005/NĐ-CP quy định về cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình.
[7] Điều 11 của Luật nhà ở, Điều 46 của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP.
[8] Khoản 1 Điều 44 Nghị định 181/2004/NĐ-CP.
Báo cáo số 249/BC-UBTVQH12 về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành
Số hiệu: | 249/BC-UBTVQH12 |
---|---|
Loại văn bản: | Báo cáo |
Nơi ban hành: | Uỷ ban Thường vụ Quốc hội |
Người ký: | Nguyễn Đức Kiên |
Ngày ban hành: | 18/06/2009 |
Ngày hiệu lực: | Đã biết |
Tình trạng: | Đã biết |
Văn bản đang xem
Báo cáo số 249/BC-UBTVQH12 về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành
Chưa có Video