CHÍNH
PHỦ |
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 81/2002/NĐ-CP |
Hà Nội, ngày 17 tháng 10 năm 2002 |
CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật tổ chức Chính phủ
ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Luật khoa học và công nghệ ngày 09 tháng 6 năm 2000;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ,
NGHỊ ĐỊNH:
Chương 1:
QUY ĐỊNH CHUNG
Nghị định này quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật khoa học và công nghệ về tổ chức khoa học và công nghệ; cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ; tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ; ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; một số biện pháp bảo đảm phát triển khoa học và công nghệ; hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ; quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ.
1. Nghị định này áp dụng đối với tổ chức, cá nhân Việt Nam hoạt động khoa học và công nghệ trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học kỹ thuật và công nghệ.
2. Nghị định này áp dụng đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoạt động khoa học và công nghệ trên lãnh thổ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác với quy định của Nghị định này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.
TỔ CHỨC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, CÁ NHÂN HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
MỤC 1: TỔ CHỨC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Điều 3. Quy hoạch hệ thống tổ chức khoa học và công nghệ
1. Bộ Khoa học và Công nghệ căn cứ vào nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng và kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ của từng thời kỳ, xây dựng quy hoạch hệ thống tổ chức nghiên cứu và phát triển trong cả nước trình Chính phủ quyết định.
2. Tổ chức nghiên cứu và phát triển được thành lập theo quy định tại Điều 10 và Điều 11 của Luật khoa học và công nghệ, được chọn tên gọi, nhưng phải bảo đảm tên gọi phù hợp với hình thức tổ chức, chức năng, lĩnh vực hoạt động chủ yếu của tổ chức đó. Bộ Khoa học và Công nghệ quy định cụ thể về tên gọi của từng loại tổ chức nghiên cứu và phát triển.
3. Tổ chức, cá nhân thành lập tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ theo quy định tại Điều 13 của Luật khoa học và công nghệ dưới hình thức tổ chức dịch vụ công hoặc doanh nghiệp dịch vụ khoa học và công nghệ theo Luật doanh nghiệp.
Điều 4. Điều kiện thành lập tổ chức nghiên cứu và phát triển, tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ
Tổ chức nghiên cứu và phát triển, tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ được thành lập khi có các điều kiện sau đây:
1. Có mục tiêu, phương hướng hoạt động phù hợp với quy định của pháp luật;
2. Có Điều lệ tổ chức và hoạt động;
3. Có đủ số lượng, cơ cấu trình độ cần thiết về nhân lực khoa học và công nghệ, kể cả nhân lực kiêm nhiệm; có trụ sở, cơ sở vật chất - kỹ thuật đủ khả năng triển khai hoạt động khoa học và công nghệ phù hợp với Điều lệ của tổ chức đó.
Bộ Khoa học và Công nghệ quy định cụ thể những điều kiện thành lập cho từng loại hình tổ chức nghiên cứu và phát triển, tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ.
Điều 5. Thẩm quyền thành lập, sáp nhập, chia tách, giải thể tổ chức nghiên cứu và phát triển
1. Chính phủ thành lập tổ chức nghiên cứu và phát triển cấp quốc gia.
2. Thủ tướng Chính phủ quyết định hoặc uỷ quyền cho Bộ trưởng, Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định thành lập tổ chức nghiên cứu và phát triển cấp bộ, cấp tỉnh.
3. Việc thành lập tổ chức nghiên cứu và phát triển trong hệ thống của Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện theo Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Toà án nhân dân, Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân.
4. Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương quyết định thành lập tổ chức nghiên cứu và phát triển phù hợp với Điều lệ của tổ chức mình.
5. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định thành lập tổ chức nghiên cứu và phát triển cấp cơ sở.
6. Người đứng đầu tổ chức nghiên cứu và phát triển cấp bộ, cấp tỉnh, tổ chức nghiên cứu và phát triển của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương; doanh nghiệp, trường đại học, bệnh viện của Nhà nước được quyết định thành lập tổ chức nghiên cứu và phát triển cấp cơ sở sau khi có sự chấp thuận của cấp trên quản lý trực tiếp.
7. Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội không thuộc quy định tại khoản 4 của Điều này, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức, cá nhân được thành lập tổ chức nghiên cứu và phát triển cấp cơ sở theo quy định của Nghị định này.
8. Người có thẩm quyền thành lập tổ chức nghiên cứu và phát triển có quyền quyết định sáp nhập, chia tách, giải thể tổ chức nghiên cứu và phát triển đó.
1. Tổ chức nghiên cứu và phát triển, tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ phải đăng ký hoạt động và chỉ được tiến hành các hoạt động khoa học và công nghệ sau khi đã được đăng ký. Sau 12 tháng kể từ ngày được đăng ký, nếu tổ chức không hoạt động thì đăng ký hết hiệu lực. Trong quá trình hoạt động, nếu có sự thay đổi về lĩnh vực hoạt động thì phải làm thủ tục đăng ký bổ sung.
a) Các tổ chức nghiên cứu và phát triển quy định tại khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 5 của Nghị định này và tổ chức nghiên cứu và phát triển có vốn của nước ngoài đăng ký hoạt động tại Bộ Khoa học và Công nghệ;
b) Tổ chức nghiên cứu và phát triển không quy định tại điểm a của khoản này đăng ký hoạt động tại Sở Khoa học và Công nghệ nơi đặt trụ sở chính của tổ chức đó;
c) Tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ có vốn của nước ngoài đăng ký hoạt động tại Bộ Khoa học và Công nghệ; tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ công đăng ký tại Sở Khoa học và Công nghệ nơi đặt trụ sở chính của tổ chức đó.
Hồ sơ đăng ký hoạt động của tổ chức nghiên cứu và phát triển, tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ bao gồm:
1. Đơn đăng ký hoạt động khoa học và công nghệ;
2. Quyết định thành lập, trừ trường hợp cá nhân tự thành lập tổ chức khoa học và công nghệ;
3. Điều lệ tổ chức và hoạt động;
4. Lý lịch khoa học của giám đốc; điều kiện về nhân lực khoa học và công nghệ, cơ sở vật chất - kỹ thuật; trụ sở của tổ chức.
Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm thẩm định hồ sơ, cấp đăng ký hoạt động cho tổ chức nghiên cứu và phát triển, tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ. Trong trường hợp không đồng ý cấp đăng ký, phải trả lời bằng văn bản nói rõ lý do. Tổ chức, cá nhân xin đăng ký hoạt động cho tổ chức nghiên cứu và phát triển, tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ chịu trách nhiệm trước pháp luật về các nội dung kê khai trong hồ sơ theo quy định tại Điều 4 và Điều 7 của Nghị định này.
Điều 9. Quyền tự chủ của tổ chức nghiên cứu và phát triển
Các tổ chức nghiên cứu và phát triển của Nhà nước có quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm về các hoạt động của tổ chức mình theo quy định tại Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16 tháng 01 năm 2002 về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu và các quy định khác của pháp luật hiện hành.
Điều 10. Liên kết, liên doanh, nhận tài trợ
1. Tổ chức khoa học và công nghệ được:
a) Hợp tác với tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước để tiến hành hoạt động khoa học và công nghệ theo quy định của pháp luật;
b) Liên kết, liên doanh, ký kết các hợp đồng hợp tác kinh doanh; góp vốn với tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước để tiến hành sản xuất - kinh doanh theo quy định của pháp luật;
c) Tổ chức sản xuất - kinh doanh các sản phẩm là kết quả nghiên cứu và phát triển hoặc các dịch vụ khoa học và công nghệ gắn với chức năng, nhiệm vụ và chuyên môn của mình. Trường hợp thành lập doanh nghiệp phải tuân theo các quy định của pháp luật.
2. Tổ chức khoa học và công nghệ được nhận tài trợ của tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế để tiến hành hoạt động khoa học và công nghệ thuộc các lĩnh vực khoa học và công nghệ nhưng không được gây phương hại đến an ninh, quốc phòng, vi phạm các quy định tại Điều 8 của Luật khoa học và công nghệ và các quy định khác của pháp luật.
MỤC 2: CÁ NHÂN HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Điều 11. Cá nhân thành lập tổ chức khoa học và công nghệ
1. Cá nhân được thành lập tổ chức khoa học và công nghệ theo quy định tại Điều 4 của Nghị định này và hoạt động không được vi phạm các quy định tại Điều 8 của Luật khoa học và công nghệ.
2. Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan xác định những lĩnh vực cụ thể mà các cá nhân được thành lập tổ chức khoa học và công nghệ, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Điều 12. Cá nhân nhận tài trợ để hoạt động khoa học và công nghệ
1. Cá nhân được nhận tài trợ của tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế để tiến hành hoạt động khoa học và công nghệ nhưng không được vi phạm các quy định về an ninh, quốc phòng và quy định tại Điều 8 của Luật khoa học và công nghệ.
2. Cá nhân đang hoạt động trong tổ chức khoa học và công nghệ nhận tài trợ thông qua tổ chức khoa học và công nghệ đó.
Cá nhân đang hoạt động trong một tổ chức khoa học và công nghệ có đề tài riêng hoặc được phía nước ngoài thuê thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ không thuộc phạm vi quản lý của tổ chức khoa học và công nghệ mình, thì đăng ký nhận tài trợ tại Sở Khoa học và Công nghệ hoặc thông qua một tổ chức khoa học và công nghệ thích hợp.
Cá nhân không thuộc tổ chức khoa học và công nghệ nào, khi được tổ chức, cá nhân nước ngoài chấp nhận tài trợ để hoạt động khoa học và công nghệ, phải đăng ký việc nhận tài trợ với Sở Khoa học và Công nghệ hoặc thông qua một tổ chức khoa học và công nghệ để nhận tài trợ. Việc sử dụng tài trợ được thực hiện theo thoả thuận bằng văn bản giữa bên nhận tài trợ và bên tài trợ.
Điều 13. Đề xuất ý kiến của cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ
Ý kiến đề xuất của cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ quy định tại khoản 5 Điều 17 của Luật khoa học và công nghệ được các cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận, nghiên cứu và trả lời.
TỔ CHỨC THỰC HIỆN NHIỆM VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Điều 14. Nhiệm vụ khoa học và công nghệ
1. Nhiệm vụ khoa học và công nghệ là những vấn đề khoa học và công nghệ cần được giải quyết, được tổ chức thực hiện dưới hình thức đề tài, dự án, chương trình khoa học và công nghệ.
2. Đề tài khoa học và công nghệ có nội dung chủ yếu nghiên cứu về một chủ đề khoa học và công nghệ. Đề tài có thể độc lập hoặc thuộc dự án, chương trình khoa học và công nghệ.
3. Dự án khoa học và công nghệ có nội dung chủ yếu tiến hành các hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, ứng dụng công nghệ; áp dụng, thử nghiệm các giải pháp, phương pháp, mô hình quản lý kinh tế - xã hội. Dự án có thể độc lập hoặc thuộc chương trình khoa học và công nghệ.
4. Chương trình khoa học và công nghệ bao gồm một nhóm các đề tài, dự án khoa học và công nghệ, được tập hợp theo một mục đích xác định nhằm thực hiện mục tiêu phát triển khoa học và công nghệ cụ thể hoặc ứng dụng trong thực tiễn.
5. Bộ Khoa học và Công nghệ quy định cụ thể việc tổ chức quản lý hoạt động của chương trình, đề tài, dự án khoa học và công nghệ.
Điều 15. Xác định nhiệm vụ khoa học và công nghệ
1. Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức xác định và trình Chính phủ quyết định chiến lược, kế hoạch phát triển khoa học công nghệ; các hướng khoa học và công nghệ ưu tiên; các nhiệm vụ khoa học và công nghệ chủ yếu của Nhà nước cùng phương án phân bổ nguồn lực và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ đó.
2. Thủ tướng Chính phủ quyết định triển khai thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ phục vụ trực tiếp cho sự chỉ đạo, điều hành và theo các yêu cầu cấp thiết khác.
3. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các cơ quan khác của Nhà nước căn cứ vào các hướng khoa học và công nghệ ưu tiên, các nhiệm vụ khoa học và công nghệ chủ yếu của Nhà nước và căn cứ vào nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của bộ, ngành, địa phương, của cơ sở, doanh nghiệp để xác định các nhiệm vụ khoa học và công nghệ của bộ, ngành, địa phương mình.
4. Các tổ chức khoa học và công nghệ căn cứ vào phương hướng ưu tiên phát triển khoa học và công nghệ của nhà nước, nhu cầu xã hội, chức năng được giao và lĩnh vực hoạt động khoa học và công nghệ của mình để xác định các nhiệm vụ khoa học và công nghệ.
5. Các doanh nghiệp căn cứ vào các hướng ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, kế hoạch sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp để xác định các nhiệm vụ khoa học và công nghệ.
6. Thủ trưởng, người đứng đầu các cơ quan, tổ chức quy định tại các khoản 1 và 3 của Điều này:
a) Thành lập Hội đồng khoa học và công nghệ theo quy định tại Điều 22 của Nghị định này để tư vấn trong việc xác định nhiệm vụ khoa học và công nghệ và quyết định về mục tiêu, nội dung các chương trình, đề tài, dự án khoa học và công nghệ;
b) Quyết định việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ theo phương thức tuyển chọn hoặc giao trực tiếp theo quy định tại các Điều 16 và Điều 17 của Nghị định này.
Điều 16. Nhiệm vụ khoa học và công nghệ được giao theo phương thức tuyển chọn
1. Nhiệm vụ khoa học và công nghệ có nhiều tổ chức, tập thể, cá nhân có khả năng tham gia thực hiện phải được giao theo phương thức tuyển chọn nhằm đạt được hiệu quả cao nhất.
2. Cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ có thẩm quyền các cấp phải công bố trên phương tiện thông tin đại chúng về các nhiệm vụ khoa học và công nghệ dự kiến thực hiện trong năm tài chính tiếp theo, điều kiện, thủ tục để mọi tổ chức, cá nhân đăng ký tham gia tuyển chọn trong khoảng thời gian 60 ngày kể từ ngày công bố.
3. Người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ các cấp quyết định kết quả tuyển chọn tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ trên cơ sở ý kiến tư vấn của Hội đồng tuyển chọn thành lập theo quy định tại Điều 23 của Nghị định này.
4. Việc tuyển chọn tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ phải công khai, công bằng, dân chủ và khách quan. Kết quả tuyển chọn phải được thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng.
Điều 17. Nhiệm vụ khoa học và công nghệ giao trực tiếp
1. Nhiệm vụ khoa học và công nghệ được giao trực tiếp là các nhiệm vụ khoa học và công nghệ thuộc bí mật quốc gia, đặc thù của an ninh, quốc phòng, một số nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp bách và các nhiệm vụ khoa học và công nghệ mà nội dung chỉ có một tổ chức khoa học và công nghệ hoặc cá nhân có đủ điều kiện về chuyên môn, trang thiết bị để thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ đó.
2. Cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ các cấp lựa chọn tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện để giao thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Tổ chức, cá nhân được giao nhiệm vụ khoa học và công nghệ phải lập đề cương và bảo vệ trước Hội đồng khoa học và công nghệ do cơ quan quản lý thành lập.
3. Tổ chức khoa học và công nghệ được giao trực tiếp nhiệm vụ khoa học và công nghệ có thể tổ chức thực hiện các nhiệm vụ này theo phương thức tuyển chọn hoặc giao trực tiếp cho tập thể, cá nhân trong tổ chức mình. Nếu tổ chức thực hiện theo phương thức tuyển chọn thì phải thành lập Hội đồng tuyển chọn theo quy định tại Điều 23 của Nghị định này. Trường hợp thực hiện theo phương thức giao trực tiếp thì phải thành lập Hội đồng khoa học và công nghệ xét duyệt đề cương thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ.
Điều 18. Nhiệm vụ khoa học và công nghệ do Quỹ phát triển khoa học và công nghệ bảo đảm tài chính
Mọi tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ đều có quyền đề xuất nhiệm vụ khoa học và công nghệ với Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của Nhà nước để nhận tài trợ hoặc vay theo quy định của Chính phủ về Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia.
Điều 19. Thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ không sử dụng ngân sách nhà nước
Nhà nước khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân tự mình tổ chức hoặc tham gia thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ dưới mọi hình thức hợp pháp.
Điều 20. Kiểm tra, đánh giá trong quá trình thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ
Cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ các cấp theo thẩm quyền phải tiến hành kiểm tra định kỳ và đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước về nội dung khoa học, tiến độ thực hiện và việc sử dụng kinh phí. Trong trường hợp cần thiết có thể điều chỉnh nội dung nghiên cứu cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn, hoặc chấm dứt việc thực hiện nhiệm vụ đó.
Điều 21. Đánh giá nghiệm thu kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ
1. Nhiệm vụ khoa học và công nghệ thực hiện bằng ngân sách nhà nước, khi kết thúc phải được Hội đồng khoa học và công nghệ chuyên ngành, thành lập theo quy định tại Điều 24 của Nghị định này, đánh giá nghiệm thu khách quan, chính xác. Cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ các cấp, theo thẩm quyền quyết định công nhận và công bố kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ.
2. Nhiệm vụ khoa học và công nghệ không thực hiện bằng ngân sách nhà nước nhưng kết quả có phạm vi ứng dụng rộng rãi trong cả nước, một ngành, địa phương hoặc có ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, quốc phòng, an ninh, môi trường, sức khoẻ và đời sống của nhân dân thì phải được cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ các cấp có thẩm quyền tổ chức thẩm định trước khi ứng dụng.
Điều 22. Hội đồng xác định nhiệm vụ khoa học và công nghệ
1. Hội đồng xác định nhiệm vụ khoa học và công nghệ do người đứng đầu cơ quan, tổ chức thành lập theo thẩm quyền để tư vấn trong việc xác định nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Nhiệm vụ của Hội đồng là phân tích, đánh giá, kiến nghị về mục tiêu, yêu cầu và kết quả dự kiến của chương trình, đề tài, dự án. ý kiến của các thành viên Hội đồng và kiến nghị của Hội đồng phải được lập thành văn bản.
2. Hội đồng gồm có chủ tịch, hai thành viên là ủy viên phản biện và các thành viên khác. Các thành viên gồm:
a) 1/2 là đại diện cho các cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức sản xuất - kinh doanh, các tổ chức khác có liên quan;
b) 1/2 là nhà khoa học và công nghệ hoạt động trong lĩnh vực khoa học và công nghệ có liên quan.
Thành viên của Hội đồng phải là các chuyên gia có uy tín, khách quan, có trình độ chuyên môn phù hợp và am hiểu sâu trong lĩnh vực khoa học và công nghệ được giao tư vấn xác định nhiệm vụ.
Điều 23. Hội đồng tuyển chọn tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ
1. Hội đồng tuyển chọn tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ do người đứng đầu cơ quan, tổ chức thành lập theo thẩm quyền để tư vấn về việc tuyển chọn tổ chức, cá nhân chủ trì thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ.
2. Hội đồng gồm có Chủ tịch, hai thành viên là ủy viên phản biện và các thành viên khác. Các thành viên gồm:
a) 1/3 là đại diện cho cơ quan quản lý nhà nước có liên quan, tổ chức sản xuất - kinh doanh sử dụng kết quả khoa học và công nghệ, các tổ chức khác có liên quan;
b) 2/3 là nhà khoa học và công nghệ hoạt động trong lĩnh vực khoa học và công nghệ có liên quan.
Thành viên Hội đồng là các chuyên gia có uy tín, khách quan, có trình độ chuyên môn phù hợp và am hiểu sâu về lĩnh vực khoa học và công nghệ mà Hội đồng được giao tư vấn tuyển chọn.
3. Trong trường hợp cần thiết cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ theo thẩm quyền chỉ định 2 chuyên gia làm phản biện không nêu danh.
Điều 24. Hội đồng đánh giá nghiệm thu kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ
1. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức theo thẩm quyền thành lập Hội đồng để đánh giá nghiệm thu kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước khi kết thúc nhiệm vụ.
2. Hội đồng đánh giá nghiệm thu kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ tiến hành đánh giá nghiệm thu theo mục đích, yêu cầu, nội dung, kết quả, tiến độ ghi trong hợp đồng đã được ký kết và chịu trách nhiệm trước cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ có thẩm quyền trong việc đánh giá nghiệm thu kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ.
3. Hội đồng gồm có Chủ tịch, hai thành viên là ủy viên phản biện và các thành viên khác. Các thành viên gồm:
a) 1/3 đại diện cho các cơ quan quản lý nhà nước và đại diện tổ chức sản xuất - kinh doanh, các tổ chức khác có liên quan;
b) 2/3 là nhà khoa học và công nghệ hoạt động trong lĩnh vực khoa học và công nghệ được giao đánh giá.
Thành viên Hội đồng là các chuyên gia có uy tín, khách quan, có trình độ chuyên môn phù hợp và am hiểu sâu trong lĩnh vực khoa học và công nghệ mà Hội đồng đánh giá nghiệm thu.
4. Trong trường hợp cần thiết cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ các cấp theo thẩm quyền chỉ định 2 chuyên gia làm phản biện không nêu danh.
Điều 25. Nguyên tắc hoạt động của các Hội đồng khoa học và công nghệ
1. Các Hội đồng khoa học và công nghệ quy định tại các Điều 22, 23 và 24 của Nghị định này làm việc theo nguyên tắc dân chủ. Các thành viên Hội đồng thảo luận công khai về nhiệm vụ được giao tư vấn. Các thành viên Hội đồng có ý kiến nhận xét bằng văn bản và phải chịu trách nhiệm về ý kiến tư vấn của mình.
2. Hội đồng cho điểm theo tiêu chí và thang điểm hoặc xếp loại theo quy định của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ.
3. Kinh phí cho hoạt động của Hội đồng khoa học và công nghệ quy định tại các Điều 23 và 24 của Nghị định này được dự toán thành một khoản riêng trong tổng kinh phí của chương trình, đề tài, dự án. Khoản kinh phí này giao cho cơ quan quản lý chương trình, đề tài, dự án quản lý. Kinh phí cho Hội đồng xác định nhiệm vụ khoa học và công nghệ quy định tại Điều 22 của Nghị định này lấy từ kinh phí sự nghiệp khoa học. Thành viên Hội đồng khoa học và công nghệ quy định tại các Điều 22, 23 và 24 của Nghị định này được trả thù lao cho việc thực hiện nhiệm vụ của Hội đồng từ kinh phí quy định tại khoản này.
4. Trong trường hợp cần thiết, cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ các cấp có thể thành lập Hội đồng khoa học và công nghệ khác để tư vấn cho mình về từng vấn đề cụ thể.
Điều 26. Nguyên tắc, hình thức hợp đồng khoa học và công nghệ
1. Hợp đồng khoa học và công nghệ gồm có: hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; hợp đồng chuyển giao công nghệ; hợp đồng dịch vụ khoa học và công nghệ.
2. Hợp đồng khoa học và công nghệ được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, thoả thuận, bình đẳng, đúng pháp luật.
3. Hợp đồng khoa học và công nghệ phải lập thành văn bản.
Điều 27. Nội dung chủ yếu của hợp đồng khoa học và công nghệ
1. Hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ phải có các nội dung chủ yếu sau đây:
a) Tên, địa chỉ, tài khoản của các bên tham gia hợp đồng;
b) Tên nhiệm vụ khoa học và công nghệ, phương pháp nghiên cứu, nội dung chủ yếu và kết quả phải đạt;
c) Địa điểm, thời hạn, phương thức thực hiện hợp đồng;
d) Quy định việc sử dụng kết quả nghiên cứu và chia sẻ lợi ích khi sử dụng kết quả;
đ) Phương pháp đánh giá kết quả, nghiệm thu;
e) Quyền sở hữu trí tuệ;
g) Chi phí thực hiện, phương thức thanh toán;
h) Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng và giải quyết tranh chấp;
i) Các thoả thuận khác.
2. Nội dung hợp đồng chuyển giao công nghệ, hợp đồng dịch vụ khoa học và công nghệ được thực hiện theo quy định của pháp luật dân sự.
Điều 28. Quyền, nghĩa vụ của bên đặt hàng
1. Bên đặt hàng hợp đồng khoa học và công nghệ có quyền:
a) Sở hữu kết quả khoa học và công nghệ, nếu không có thoả thuận khác trong hợp đồng;
b) Chuyển giao kết quả khoa học và công nghệ cho người khác.
2. Bên đặt hàng hợp đồng khoa học và công nghệ có nghĩa vụ:
a) Cung cấp các thông tin cần thiết cho việc thực hiện hợp đồng;
b) Thanh toán đầy đủ chi phí vật chất cho bên nhận đặt hàng theo thoả thuận trong hợp đồng.
Điều 29. Quyền, nghĩa vụ của bên nhận đặt hàng thực hiện hợp đồng
1. Bên nhận đặt hàng thực hiện hợp đồng khoa học và công nghệ có quyền:
a) Hưởng quyền tác giả đối với kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ theo thoả thuận trong hợp đồng;
b) Yêu cầu bên đặt hàng cung cấp thông tin và những điều kiện khác theo thoả thuận trong hợp đồng để thực hiện hợp đồng;
c) Nhận kinh phí của bên đặt hàng để thực hiện hợp đồng.
2. Bên nhận đặt hàng thực hiện hợp đồng khoa học và công nghệ có nghĩa vụ:
a) Giao nộp sản phẩm theo đúng quy định trong hợp đồng;
b) Không được chuyển giao kết quả khoa học và công nghệ nếu không có sự thoả thuận của bên đặt hàng.
Điều 30. Giải quyết tranh chấp hợp đồng
1. Bên vi phạm hợp đồng khoa học và công nghệ phải bồi thường thiệt hại do lỗi của mình gây ra và bị phạt vi phạm theo quy định của hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật.
2. Tranh chấp hợp đồng khoa học và công nghệ được giải quyết trước hết theo nguyên tắc hoà giải, thoả thuận giữa các bên; các bên không tự giải quyết được thì giải quyết tại Toà án, nếu không có thoả thuận về trọng tài.
Chương 4:
ỨNG DỤNG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ
Điều 31. Sử dụng, chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ
Trên cơ sở kết quả đánh giá nghiệm thu của Hội đồng khoa học, Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước các cấp về khoa học và công nghệ quyết định nghiệm thu kết quả và việc công bố, sử dụng, chuyển giao kết quả đó. Những kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ do Nhà nước đầu tư phục vụ công ích phải được công bố công khai rộng rãi để tổ chức, cá nhân ứng dụng vào sản xuất và đời sống. Chủ nhiệm đề tài, dự án và cơ quan thực hiện đề tài, dự án có trách nhiệm thực hiện chuyển giao kết quả nghiên cứu vào sản xuất và đời sống theo quy định của pháp luật.
Điều 32. Khuyến khích sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất
1. Cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ các cấp phải có biện pháp thúc đẩy phong trào sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất; phát triển dịch vụ khoa học và công nghệ; tăng cường công tác phổ biến kiến thức khoa học và công nghệ để nâng cao dân trí về khoa học và công nghệ.
2. Hàng năm Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Liên hiệp các hội khoa học - kỹ thuật Việt Nam và các tổ chức xã hội nghề nghiệp, doanh nghiệp tổ chức hội thi sáng tạo, sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất và dành ngân sách sự nghiệp khoa học để hỗ trợ cho việc phổ biến, ứng dụng rộng rãi kết quả của các cuộc thi này vào sản xuất và đời sống.
3. Doanh nghiệp tổ chức thi sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất thì kinh phí cho hoạt động này được tính là đầu tư cho hoạt động khoa học và công nghệ quy định tại Điều 40 của Luật khoa học và công nghệ.
4. Nhà nước khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân tự tổ chức hoặc tài trợ cho việc tổ chức hội thi sáng tạo, sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất.
Điều 33. Khuyến khích ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ
1. Tổ chức, cá nhân ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ để đổi mới quản lý, đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm được hưởng ưu đãi về thuế, tín dụng theo quy định tại các Điều 42 và 43 của Nghị định này.
2. Tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ khi chuyển nhượng, chuyển giao kết quả nghiên cứu và phát triển của mình vào sản xuất và đời sống, được tạo điều kiện để quảng cáo, giới thiệu, trình diễn kết quả nghiên cứu và phát triển; tham gia triển lãm, hội chợ.
3. Lợi nhuận thu được khi chuyển nhượng, chuyển giao kết quả nghiên cứu và phát triển được phân chia cho nhà khoa học tạo ra kết quả, cho chủ sở hữu kết quả, cho tổ chức khoa học và công nghệ của nhà khoa học và cho người môi giới. Tỷ lệ phân chia được thoả thuận trong hợp đồng khoa học và công nghệ giữa các bên. Trong trường hợp công nghệ được tạo ra do sử dụng ngân sách nhà nước thì tác giả được nhận tối đa 30% giá thanh toán chuyển giao công nghệ; tác giả và tập thể tổ chức áp dụng thành công kết quả khoa học và công nghệ được bên sử dụng kết quả khoa học và công nghệ thưởng trị giá tối đa 30% thu nhập tăng thêm sau thuế trong thời hạn 03 năm.
4. Người môi giới cho việc ứng dụng kết quả khoa học và công nghệ được tạo ra bằng ngân sách nhà nước được hưởng tối đa 10% giá thanh toán chuyển giao công nghệ, mức cụ thể và trách nhiệm thanh toán khoản kinh phí này do các bên thoả thuận.
Cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ các cấp thực hiện các biện pháp sau đây để đẩy mạnh ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ vào việc xây dựng mô hình và giải pháp cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đổi mới và hoàn thiện quản lý kinh tế - xã hội; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, dân tộc, con người mới Việt Nam:
1. Đánh giá, công nhận ý nghĩa khoa học và thực tiễn của các công trình khoa học và công nghệ của lĩnh vực này;
2. Hỗ trợ kinh phí, tổ chức triển khai các mô hình thí điểm, phổ biến, nhân rộng ứng dụng kết quả nghiên cứu và phát triển;
3. Thưởng thích đáng cho tổ chức, cá nhân thực hiện những công trình nghiên cứu và phát triển được ứng dụng vào đời sống.
Điều 35. Ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trong doanh nghiệp
1. Doanh nghiệp ứng dụng công nghệ được tạo ra trong nước, được cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ xác nhận về mặt công nghệ để được hưởng ưu đãi khi vay tín dụng tại ngân hàng.
2. Doanh nghiệp ứng dụng công nghệ được tạo ra trong nước mà Nhà nước là chủ sở hữu thì được miễn khoản thanh toán chuyển giao công nghệ cho Nhà nước, nhưng phải thanh toán cho tác giả theo quy định tại khoản 3 Điều 33 của Nghị định này.
1. Chính phủ thành lập và khuyến khích tổ chức, cá nhân thành lập các cơ sở chuyển giao, ứng dụng công nghệ; mở rộng mạng lưới các tổ chức khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, dịch vụ khoa học và công nghệ ở địa phương để cung cấp dịch vụ phù hợp với yêu cầu của nông dân; tăng cường đầu tư thực hiện dự án khoa học và công nghệ, xây dựng một số mô hình thí điểm ứng dụng khoa học và công nghệ trên địa bàn nông thôn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
2. Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân, chuyên gia khoa học và công nghệ trong nước và nước ngoài tổ chức ứng dụng rộng rãi thành tựu khoa học và công nghệ tại địa phương; tạo điều kiện về nhà ở và đất ở, phương tiện đi lại, thiết bị, cơ sở làm việc, cho cán bộ khoa học và công nghệ công tác tại địa phương.
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hỗ trợ kinh phí hoặc trợ giá một phần cho nông dân ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất và đời sống.
3. Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Khoa học và Công nghệ hướng dẫn cụ thể chế độ phụ cấp và các chế độ khác đối với cán bộ khoa học và công nghệ công tác tại các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
Điều 37. Dự án đầu tư, chương trình phát triển kinh tế - xã hội
1. Các dự án đầu tư loại A, B, chương trình phát triển kinh tế - xã hội được lập hạng mục chi cho nghiên cứu và phát triển phục vụ cho xây dựng căn cứ khoa học cho dự án, chương trình, các giai đoạn chuẩn bị đầu tư và thực hiện đầu tư và giải quyết các vấn đề khoa học và công nghệ phát sinh trong quá trình thực hiện chương trình, dự án.
2. Các dự án đầu tư, các chương trình phát triển kinh tế - xã hội phải được cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ thẩm định cơ sở khoa học và thẩm định công nghệ trong giai đoạn xây dựng dự án, chương trình. Cấp nào quản lý chương trình, dự án thì cấp đó chịu trách nhiệm tổ chức Hội đồng khoa học và công nghệ để thẩm định.
3. Công nghệ đưa vào ứng dụng trong giai đoạn thực hiện đầu tư dự án, chương trình phải được thẩm định. Căn cứ vào quy mô, tính chất của dự án, chương trình, việc phân cấp thẩm định công nghệ phù hợp với phân cấp thẩm định như đối với các dự án đầu tư xây dựng.
4. Bộ Khoa học và Công nghệ hướng dẫn cụ thể trình tự, thủ tục thẩm định cơ sở khoa học và thẩm định công nghệ các dự án đầu tư, các chương trình phát triển kinh tế - xã hội.
Chương 5:
BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Điều 38. Đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài về khoa học và công nghệ
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ và Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng kế hoạch chung về đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ trình Chính phủ quyết định.
2. Các chương trình khoa học và công nghệ của Nhà nước thuộc hướng ưu tiên, trọng điểm phải có hạng mục đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài về khoa học và công nghệ. Kết quả việc đào tạo là một trong các tiêu chuẩn để đánh giá khi kết thúc nhiệm vụ khoa học và công nghệ đó.
3. Các tổ chức, cá nhân có đủ năng lực, điều kiện theo quy định của Nhà nước được bình đẳng tham gia vào việc đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài dưới nhiều hình thức kể cả việc cấp học bổng cho công dân Việt Nam đi học tập, nâng cao trình độ chuyên môn ở trong nước và ở nước ngoài. Chi phí cho hoạt động đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ của doanh nghiệp được tính vào chi phí hợp lý khi xác định thu nhập chịu thuế.
Điều 39. Sử dụng nhân lực khoa học và công nghệ
1. Các tổ chức khoa học và công nghệ của Nhà nước có trách nhiệm trong việc xây dựng các tập thể khoa học mạnh; hỗ trợ về mặt tổ chức, cơ sở vật chất để các tập thể khoa học lâm thời gồm các cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ tập hợp từ nhiều tổ chức khoa học và công nghệ khác nhau có điều kiện được tham gia và thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ của Nhà nước.
2. Hàng năm cơ quan quản lý Nhà nước về khoa học và công nghệ, tổ chức khoa học và công nghệ xét, tặng thưởng cho công trình khoa học và công nghệ xuất sắc; thưởng và có chế độ ưu đãi đặc biệt về điều kiện làm việc và sinh hoạt cho các nhà khoa học và công nghệ có nhiều tài năng và cống hiến trong hoạt động khoa học và công nghệ.
3. Tổ chức nghiên cứu và phát triển của Nhà nước phải thông báo công khai tiêu chí và tổ chức tuyển chọn nhân lực khoa học và công nghệ nhằm đảm bảo chọn được những người thực sự có năng lực nghiên cứu. Khi xem xét để bổ nhiệm, sử dụng, khen thưởng phải căn cứ vào kết quả hoạt động khoa học và công nghệ của cá nhân.
4. Cá nhân thuộc tổ chức khoa học và công nghệ được làm việc theo chế độ kiêm nhiệm tại tổ chức khoa học và công nghệ khác theo hợp đồng lao động. Bộ Khoa học và Công nghệ quy định cụ thể về chế độ làm việc kiêm nhiệm trong các tổ chức khoa học và công nghệ.
1. Chức vụ khoa học gồm có: trợ lý nghiên cứu, nghiên cứu viên, nghiên cứu viên chính, nghiên cứu viên cấp cao.
2. Căn cứ để xét bổ nhiệm chức vụ khoa học gồm có:
a) Tài năng, quá trình đào tạo, sự cống hiến và thời gian hoạt động khoa học và công nghệ;
b) Người có công trình nghiên cứu khoa học và công nghệ xuất sắc hoặc được giải thưởng cao về khoa học và công nghệ được ưu tiên xét bổ nhiệm vào chức vụ khoa học cao hơn, không phụ thuộc vào chức vụ đang giữ và thời gian hoạt động khoa học và công nghệ.
3. Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ quy định về tiêu chuẩn đối với từng chức vụ khoa học, thủ tục xét, bổ nhiệm chức vụ khoa học.
Điều 41. Doanh nghiệp đầu tư phát triển khoa học và công nghệ
1. Doanh nghiệp được tính các khoản chi phí phát triển khoa học và công nghệ vào chi phí hợp lý khi xác định thu nhập chịu thuế, bao gồm các khoản chi cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, mua thông tin, tư liệu công nghệ, sở hữu công nghiệp và chi phí cho các hoạt động sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất. Các khoản đầu tư về công nghệ tạo thành tài sản cố định được phân bổ trừ dần vào chi phí sản xuất.
2. Doanh nghiệp được lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ để chủ động đầu tư cho khoa học và công nghệ theo yêu cầu phát triển của doanh nghiệp. Nguồn vốn của Quỹ này được hình thành từ lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp và các nguồn khác nếu có.
3. Doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu những vấn đề khoa học và công nghệ thuộc lĩnh vực ưu tiên, trọng điểm của Nhà nước được cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ các cấp có thẩm quyền xét tài trợ từ ngân sách sự nghiệp khoa học và công nghệ hoặc được quỹ phát triển khoa học và công nghệ xem xét tài trợ theo quy định hoạt động của Quỹ. Bộ Khoa học và Công nghệ quy định cụ thể điều kiện và thủ tục xét tài trợ cho đối tượng này.
4. Ngoài các ưu đãi quy định tại khoản 1, khoản 2 và khoản 3 của Điều này, doanh nghiệp đầu tư phát triển khoa học và công nghệ còn được hưởng các ưu đãi theo quy định pháp luật hiện hành.
Điều 42. Chính sách thuế đối với hoạt động khoa học và công nghệ
1. Thu nhập từ việc thực hiện hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ không phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. Việc xác định thu nhập không phải chịu thuế thực hiện theo quy định về thuế thu nhập doanh nghiệp.
2. Kinh phí tổ chức khoa học và công nghệ nhận được từ việc ký kết hợp đồng thực hiện các chương trình, đề tài, dự án sử dụng ngân sách nhà nước và các đề tài, dự án do các quỹ phát triển khoa học và công nghệ tài trợ không phải chịu thuế giá trị gia tăng.
3. Máy móc, thiết bị, phụ tùng, vật tư, phương tiện vận tải trong nước chưa sản xuất được hoặc đã sản xuất được nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu; công nghệ ưu tiên; tài liệu, sách báo, các thông tin điện tử về khoa học và công nghệ, thiết bị công nghệ cao nhập khẩu để sử dụng trực tiếp vào hoạt động nghiên cứu và phát triển không phải chịu thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng.
4. Sản phẩm đang trong thời kỳ sản xuất thử nghiệm không phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế giá trị gia tăng.
5. Doanh nghiệp thực hiện việc đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ công nghệ, sản xuất ra sản phẩm từ công nghệ mới lần đầu tiên áp dụng tại Việt Nam được miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho số thu nhập tăng thêm do các hoạt động này mang lại. Các trường hợp cụ thể được quy định như sau:
a) Doanh nghiệp trong nước thực hiện theo quy định của Luật khuyến khích đầu tư trong nước;
b) Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài trong các hợp đồng hợp tác kinh doanh thực hiện theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
6. Thuế đối với các hoạt động tư vấn khoa học và công nghệ, chuyển giao công nghệ và xuất khẩu công nghệ được quy định như sau:
a) Không thu thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động chuyển giao công nghệ. Hoạt động tư vấn khoa học và công nghệ được áp dụng thuế suất thuế giá trị gia tăng ở mức thấp nhất trong khung chịu thuế;
b) Các hoạt động tư vấn khoa học và công nghệ, chuyển giao công nghệ, xuất khẩu công nghệ được hưởng các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp.
7. Các hoạt động dịch vụ thông tin khoa học và công nghệ được hưởng ưu đãi cao nhất về thuế thu nhập doanh nghiệp và mức thuế suất thấp nhất của thuế giá trị gia tăng.
8. Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan hữu quan quy định cụ thể các ưu đãi về thuế đối với hoạt động khoa học và công nghệ được quy định tại Điều này; Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ xác định máy móc, thiết bị trong nước chưa sản xuất được hoặc đã sản xuất được nhưng chưa đạt yêu cầu, công nghệ ưu tiên trong nước chưa tạo ra được để làm căn cứ xác định ưu đãi thuế quy định tại Điều này.
Điều 43. Chính sách tín dụng đối với hoạt động khoa học và công nghệ
1. Tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ vay vốn trung và dài hạn để tiến hành hoạt động khoa học và công nghệ, được hưởng lãi suất ưu đãi khi vay vốn tại Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia, các quỹ khác.
2. Ưu đãi về tín dụng đối với các tổ chức, cá nhân vay để đầu tư vào hoạt động khoa học và công nghệ được thực hiện theo Điều lệ của các Quỹ nơi vay vốn.
3. Trường hợp vay vốn tại các ngân hàng thương mại để đầu tư vào hoạt động khoa học và công nghệ, các tổ chức, cá nhân được Quỹ hỗ trợ phát triển xem xét hỗ trợ lãi suất sau đầu tư hoặc bảo lãnh tín dụng đầu tư theo Điều lệ của Quỹ.
4. Những chương trình, đề tài, dự án khoa học và công nghệ phục vụ trực tiếp các chương trình kinh tế - xã hội trọng điểm của Nhà nước và phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia có yêu cầu sử dụng vốn lớn, được ưu tiên xét cho sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) theo phương thức:
a) Tài trợ không hoàn lại hoặc cho vay ưu đãi đối với các hoạt động nghiên cứu và phát triển;
b) Cho vay đối với dự án đầu tư xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ hoặc cho vay có thu hồi đối với các dự án ứng dụng kết quả khoa học và công nghệ.
5. Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan quy định cụ thể các ưu đãi tín dụng đối với hoạt động khoa học và công nghệ quy định tại Điều này.
Điều 44. Ưu đãi đối với việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật
1. Tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật để hoạt động khoa học và công nghệ thì chi phí này được coi là chi phí hợp lý và được trừ khi xác định thuế thu nhập doanh nghiệp.
2. Tổ chức khoa học và công nghệ thuê đất để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho hoạt động khoa học và công nghệ được hưởng các ưu đãi ở mức cao nhất về tiền thuê đất và mức thấp nhất về thuế sử dụng đất theo pháp luật về thuế quy định.
3. Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và các bộ có liên quan ban hành Quy chế quản lý và hoạt động của Phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, nhằm đảm bảo hiệu quả hoạt động của các cơ sở này.
Điều 45. Đánh giá hoạt động khoa học và công nghệ
1. Bộ Khoa học và Công nghệ quy định cụ thể các tiêu chí, phương pháp, trình tự và việc tổ chức đánh giá hoạt động khoa học và công nghệ.
2. Cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ các cấp theo thẩm quyền phải tiến hành kiểm tra, đánh giá hoạt động khoa học và công nghệ thuộc lĩnh vực quản lý.
Chương 6:
HỢP TÁC QUỐC TẾ VỀ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
1. Trí thức là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, các chuyên gia giỏi của thế giới được khuyến khích tham gia hoạt động khoa học và công nghệ tại Việt Nam dưới các hình thức khác nhau.
2. Trí thức là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, các chuyên gia giỏi là người nước ngoài trong thời gian làm việc tại Việt Nam có quyền, nghĩa vụ và được hưởng các ưu đãi như sau:
a) Được hưởng các quyền và thực hiện nghĩa vụ như đối với cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ Việt Nam quy định tại các Điều 17 và Điều 18 của Luật Khoa học và Công nghệ;
b) Có các quyền, nghĩa vụ theo hợp đồng khoa học và công nghệ hoặc thoả thuận đã ký kết với tổ chức, cá nhân Việt Nam;
c) Được bổ nhiệm giữ các chức vụ khoa học và công nghệ quy định tại Điều 36 của Luật Khoa học và Công nghệ;
d) Được hưởng các ưu đãi khác theo quy định của pháp luật.
3. Trí thức là người Việt Nam định cư ở nước ngoài và những chuyên gia giỏi là người nước ngoài có những cống hiến lớn đối với sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ của Việt Nam, được Nhà nước Việt Nam khen thưởng, xét tặng các giải thưởng về khoa học và công nghệ của Việt Nam.
Điều 47. Quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân Việt Nam trong hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ
1. Tổ chức, cá nhân Việt Nam được nhận tài trợ của tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế để hoạt động khoa học và công nghệ trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ phải bảo đảm các hoạt động này không gây phương hại đến quốc phòng, an ninh, môi trường, đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam và không vi phạm các quy định tại Điều 8 của Luật khoa học và công nghệ.
2. Tổ chức, cá nhân Việt Nam hoạt động khoa học và công nghệ được tham gia tổ chức khoa học và công nghệ, hội khoa học và công nghệ; tham gia hoạt động nghiên cứu, đào tạo, tư vấn, hội nghị khoa học và công nghệ của tổ chức quốc tế, tổ chức, cá nhân nước ngoài; tham gia các hoạt động hợp tác thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ của Việt Nam. Việc tham gia của tổ chức, cá nhân không được vi phạm các quy định tại Điều 8 Luật khoa học và công nghệ.
3. Tổ chức, cá nhân Việt Nam hoạt động khoa học và công nghệ được thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ của Việt Nam ở nước ngoài; được mang ra nước ngoài tài liệu, vật mẫu thí nghiệm có liên quan để phục vụ cho hoạt động nghiên cứu theo quy định của pháp luật.
Điều 48. Tổ chức khoa học và công nghệ có vốn của nước ngoài
1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức quốc tế, tổ chức, cá nhân nước ngoài được thành lập tổ chức khoa học và công nghệ tại Việt Nam dưới các hình thức hợp tác, liên kết giữa tổ chức, cá nhân nước ngoài với tổ chức, cá nhân Việt Nam, 100% vốn nước ngoài (gọi tắt là tổ chức khoa học và công nghệ có vốn của nước ngoài).
2. Hoạt động khoa học và công nghệ của tổ chức khoa học và công nghệ có vốn của nước ngoài không được gây phương hại đến an ninh, quốc phòng, môi trường, đạo đức, thuần phong, mỹ tục của dân tộc Việt Nam và không được vi phạm các quy định tại Điều 8 Luật khoa học và công nghệ.
3. Tổ chức khoa học và công nghệ có vốn của nước ngoài được thành lập theo Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật khuyến khích đầu tư trong nước và phải tuân thủ các quy định về điều kiện thành lập, quyền và nghĩa vụ, thủ tục, hồ sơ xin cấp phép, các chế độ khuyến khích, ưu đãi được quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật tương ứng và Luật khoa học và công nghệ.
4. Tổ chức nghiên cứu và phát triển có vốn của nước ngoài được thành lập vì mục đích phi lợi nhuận phải tuân thủ các quy định về điều kiện thành lập, quyền và nghĩa vụ, thủ tục, hồ sơ xin đăng ký hoạt động, điều lệ tổ chức và hoạt động, được hưởng các chế độ khuyến khích và ưu đãi quy định như đối với tổ chức khoa học và công nghệ của tổ chức, cá nhân Việt Nam.
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Điều 49. Nhiệm vụ và quyền hạn của Bộ Khoa học và Công nghệ
Bộ Khoa học và Công nghệ chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ trong phạm vi cả nước, có nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của Chính phủ.
Điều 50. Nhiệm vụ và quyền hạn của các Bộ, cơ quan ngang Bộ trong quản lý khoa học và công nghệ
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ thực hiện quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ và chịu trách nhiệm về hoạt động khoa học và công nghệ trong ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách; có trách nhiệm xác định, tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ thuộc các lĩnh vực được phân công phụ trách; bảo đảm quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khoa học và công nghệ của ngành; có tổ chức chuyên trách quản lý khoa học và công nghệ để giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ thực hiện quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ theo quy định của Chính phủ.
Điều 51. Nhiệm vụ và quyền hạn của Uỷ ban nhân dân các cấp trong quản lý khoa học và công nghệ
1. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ tại địa phương, chịu trách nhiệm về hoạt động khoa học và công nghệ của địa phương; có trách nhiệm xác định, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ của tỉnh; tổ chức áp dụng kết quả khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống tại địa phương; bảo đảm quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khoa học và công nghệ của địa phương mình.
Sở Khoa học và Công nghệ chịu trách nhiệm trước ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ tại địa phương.
2. Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ tại địa phương theo phân cấp của ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Căn cứ vào điều kiện cụ thể của từng địa phương, Chủ tịch ủy ban nhân dân quyết định hình thức và phương thức thích hợp về quản lý khoa học và công nghệ trong khuôn khổ phân cấp của Chính phủ về bộ máy tổ chức của huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Nghị định này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày ký.
Những quy định trước đây trái với Nghị định này đều bãi bỏ.
Điều 53. Hướng dẫn và trách nhiệm thi hành
1. Bộ trưởng các Bộ: Khoa học và Công nghệ, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Giáo dục và Đào tạo, Lao động - Thương binh và Xã hội, Nội vụ theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm hướng dẫn thi hành Nghị định này.
2. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm thi hành Nghị định này.
|
Phan Văn Khải (Đã ký) |
THE
GOVERNMENT |
SOCIALIST
REPUBLIC OF VIET NAM |
No. 81/2002/ND-CP |
Hanoi, October
17, 2002 |
DETAILING THE IMPLEMENTATION OF A NUMBER OF ARTICLES OF THE SCIENCE AND TECHNOLOGY LAW
THE GOVERNMENT
Pursuant to the December 25,
2001 Law on Organization of the Government;
Pursuant to the June 9, 2000 Law on Science and Technology;
At the proposal of the Minister of Science and Technology,
DECREES:
...
...
...
Article 2.- Objects of application
1. This Decree shall apply to Vietnamese organizations and individuals conducting scientific and technological activities in the domains of natural sciences, social sciences and humanity, technical sciences and technologies.
2. This Decree shall apply to foreign organizations and individuals as well as overseas Vietnamese, conducting scientific and technological activities in the territory of the Socialist Republic of Vietnam. Where the international agreements which the Socialist Republic of Vietnam has signed or acceded to contain provisions different from those of this Decree, the provisions of such international agreements shall apply.
Section 1.
SCIENTIFIC AND TECHNOLOGICAL ORGANIZATIONS
Article 3.- Planning on the system of scientific and technological organizations
1. The Ministry of Science and Technology shall base itself on the tasks of socio-economic development, security and defense maintenance and the scientific and technological development plan of each period to work out the planning on the system of research and development organizations throughout the country for submission to the Government for decision.
2. The research and development organizations are set up according to the provisions in Articles 10 and 11 of the Science and Technology Law, may choose their names which, however, must conform to their respective organizational forms, functions, major operating domains. The Ministry of Science and Technology shall specify the names of research and development organizations of each type.
...
...
...
The research and development organizations, the scientific and technological service organizations shall be set up when the following conditions are met:
1. Their operation objectives and orientations are compliant with law provisions;
2. They have organization and operation charters;
3. They have enough science and technology personnel with necessary qualification structure, including part-time personnel; have head offices and material-technical foundations capable of deploying scientific and technological activities in line with their respective charters.
The Ministry of Science and Technology shall specify the conditions for setting up research and development organizations as well as scientific and technological service organizations of various types.
Article 5.- Competence to set up, merge, divide or dissolve research and development organizations
1. The Government shall set up national-level research and development organizations.
2. The Prime Minister shall decide or authorize the ministers, the presidents of the People’s Committees of the provinces or centrally-run cities to decide on the establishment of the ministerial-level or the provincial-level research and development organizations.
...
...
...
4. Political organizations and socio-political organizations of central level shall decide on the establishment of research and development organizations in accordance with their respective charters.
5. The ministers, the heads of the ministerial-level agencies, the heads of the agencies attached to the Government, the presidents of the provincial/municipal People’s Committees shall decide on the establishment of grassroots research and development organizations.
6. The heads of the research and development organizations of ministerial- or provincial-level, the research and development organizations of central-level political organizations or socio-political organizations; State-run enterprises, universities, and hospitals shall be entitled to decide on the establishment of grassroots research and development organizations after getting the approval of their immediate superior managing bodies.
7. Political organizations and socio-political organizations other than those prescribed in Clause 4 of this Article, social organizations, socio-professional organizations, organizations and individuals may set up grassroots research and development organizations according to the provisions of this Decree.
8. Persons who are competent to set up research and development organizations may decide to merge, divide or dissolve such research and development organizations.
1. The research and development organizations and the scientific and technological service organizations must register their operations and may only conduct the already registered scientific and technological activities. If within 12 months after the registration, such organizations fail to commence their operations, the registration shall be no longer valid. If in the course of operation, there are any changes in their operation fields, they must carry out the procedures for additional registration.
2. The registration of operations of the research and development organizations as well as the scientific and technological service organizations is stipulated as follows:
a) The research and development organizations prescribed in Clauses 1,2,3 and 4 of Article 5 of this Decree and the foreign-invested research and development organizations shall make their operation registrations at the Ministry of Science and Technology;
...
...
...
c) The foreign-invested scientific and technological service organizations shall effect their operation registrations at the Ministry of Science and Technology; the public-service scientific and technological service organizations shall effect their registrations at the provincial/municipal Science and Technology Services of the localities where they are headquartered.
The dossier of registration of operation of a research and development organization or a scientific and technological service organization comprises:
1. The application for registration of scientific and technological activities;
2. The decision on establishment of such organization, except where the scientific and technological organizations are set up by individuals themselves;
3. The organization and operation charter;
4. The scientific record of the director, the conditions on scientific and technical personnel as well as material-technical foundations; the head-office of the organization.
Within 15 days after receiving the complete and valid dossiers, the competent agencies shall have to appraise the dossiers and grant the operation registration to the applying research and development organizations or scientific and technological service organizations. In case of refusal to grant the registration, they must reply in writing and clearly state the reasons therefor. The organizations and individuals that apply for registration of operation of research and development organizations or scientific and technological service organizations shall be held responsible before law for the contents declared in the dossier as provided for in Articles 4 and 7 of this Decree.
...
...
...
The State-run research and development organizations shall have the right to autonomy and take responsibility for their respective activities under the provisions in Decree No.10/2002/ND-CP of January 16, 2002 on the financial regime applicable to non-business units with revenue and other provisions of current legislation.
Article 10.- Alignment, joint venture, financial assistance reception
1. The scientific and technological organizations may:
a) Cooperate with domestic as well as foreign organizations and individuals in carrying out scientific and technological activities according to law provisions;
b) Align, enter into joint ventures and/or sign business cooperation contracts with, or contribute capital to, domestic or foreign organizations or individuals for carrying out production and business activities according to law provisions;
c) Organize the production and trading of products being the research and development outcomes or provide scientific and technological services closely linked to their respective functions, tasks and profession. Where enterprises are set up, the provisions of law must be complied with.
2. Scientific and technological organizations may receive financial assistance of domestic and foreign organizations and individuals as well as international organizations to carry out their scientific and techno-logical activities in various scientific and technological fields but must neither cause harms to security and defense nor violate the provisions in Article 8 of the Science and Technology Law and other law provisions.
Section 2.
INDIVIDUALS ENGAGED IN SCIENTIFIC AND TECHNOLOGICAL ACTIVITIES
Article 11.- Individuals setting up scientific and technological organizations
...
...
...
2. The Ministry of Science and Technology shall assume the prime responsibility and coordinate with the concerned agencies in determining specific domains where individuals are entitled to set up scientific and technological organizations and submit them to the Prime Minister for decision.
Article 12.- Individuals receiving financial assistance for scientific and technological activities
1. Individuals may receive financial assistance of domestic and foreign organizations and individuals as well as international organizations to conduct scientific and technological activities, but must not violate the regulations on security and defense and the provisions in Article 8 of the Science and Technology Law.
2. Individuals working in scientific and technological organizations shall receive financial assistance through such scientific and technological organizations.
Individuals working in scientific and technological organizations, who have their own research subjects or are hired by foreign parties to perform scientific and technological tasks not falling within the scope of management by their respective scientific and technological organizations, shall register to receive financial assistance at the provincial/municipal Services of Science and Technology or through an appropriate scientific and technological organization.
Individuals who do not belong to any scientific and technological organization, when getting the agreement of foreign organizations or individuals to provide financial assistance for scientific and technological activities, shall have to register the reception of financial assistance with the provincial/municipal Services of Science and Technology or receive the financial assistance through a scientific and technological organization. The use of financial assistance shall comply with the written agreements between the financial assistance recipients and the donors.
Article 13.- Proposing comments by individuals engaged in scientific and technological activities
The comments proposed by individuals engaged in scientific and technological activities prescribed in Clause 5, Article 17 of the Science and Technology Law shall be received, studied and replied by competent agencies.
...
...
...
Article 14.- Scientific and technological tasks
1. Scientific and technological tasks mean scientific and technological matters which need to be solved and implemented in forms of scientific and technological subjects, projects or programs.
2. A scientific and technological subject has the major contents of researching into a scientific and technological subject. Subjects may be independent or under scientific and technological projects or programs.
3. Scientific and technological projects have the major contents of carrying out scientific research, technological development, technological application; applying and experimenting socio-economic management solutions, methods and models. Projects may be independent or under scientific and technological programs.
4. A scientific and technological program comprises a group of scientific and technological subjects and projects, which are gathered for a definite purpose aiming to develop specific sciences and technologies or apply them in reality.
5. The Ministry of Science and Technology shall specify the organization of management of activities of scientific and technological programs, subjects or projects.
Article 15.- Determining scientific and technological tasks
1. The Ministry of Science and Technology shall determine and submit to the Government for decision the scientific and technological development strategies and plans; priority scientific and technological orientations; the major scientific and technological tasks of the State as well as plans on resource distribution, and organize the implementation of those scientific and technological tasks.
2. The Prime Minister shall decide on the performance of scientific and technological tasks in direct service of direction and administration and according to other urgent requirements.
...
...
...
4. The scientific and technological organizations shall base themselves on the priority scientific and technological orientations of the State, the requirements of the society as well as their respective assigned functions and scientific and technological domains to determine the scientific and technological tasks.
5. The enterprises shall base themselves on priority orientations for the country’s socio-economic development and their production and business plans to determine scientific and technological tasks.
6. The heads of the agencies and organizations defined in Clauses 1 and 3 of this Article shall:
a) Set up science and technology councils as provided for in Article 22 of this Decree to advise on the determination of scientific and technological tasks and deciding on objectives and contents of scientific and technological projects, subjects or programs;
b) Decide on the organization of performance of scientific and technological tasks by method of selection or direct assignment as provided for in Articles 16 and 17 of this Decree.
Article 16.- Scientific and technological tasks assigned by selection method
1. Scientific and technological tasks to be implemented with the participation of many capable organizations, collectives and/or individuals must be assigned by selection method in order to achieve the highest efficiency.
2. The competent State management agencies of various levels in charge of science and technology must announce on the mass media the scientific and technological tasks expected to be implemented in the subsequent fiscal year, as well as the conditions and procedures for all organizations and individuals to register for participation in the selection within 60 days after the announcement.
3. The heads of the State management agencies in charge of science and technology of various levels shall decide on the results of selecting organizations or individuals to perform the scientific and technological tasks based on the consultations of the selection councils set up under the provisions in Article 23 of this Decree.
...
...
...
Article 17.- Scientific and technological tasks to be assigned directly
1. The to be-directly-assigned scientific and technological tasks are scientific and technological tasks of State secrets, security and defense particularity, a number of urgent scientific and technological tasks and scientific and technological tasks to be performed by only one scientific and technological organization or individual, that meets all conditions on professional qualifications and equipment as well as facilities for the performance thereof.
2. The State management agencies of various levels in charge of science and technology shall select fully qualified organizations and individuals for the performance of scientific and technological tasks. The organizations and individuals that are assigned the scientific and technological tasks must work out schemes and defend them before the science and technology councils set up by the management agencies.
3. The scientific and technological organizations directly assigned scientific and technological tasks may organize the implementation thereof by mode of selection or direct assignment to collectives or individuals in their organizations. If the organization of implementation is conducted by selection mode, the selection councils must be set up according the provisions in Article 23 of this Decree. In case of implementation by mode of direct assignment, the science and technology councils must be set up to consider and approve the schemes for implementation of scientific and technological tasks.
All organizations and individuals engaged in scientific and technological activities may propose scientific and technological tasks to the State’s Scientific and Technological Development Fund in order to receive financial assistance or loans according to the Government’s regulations on the National Fund for Scientific and Technological Development.
Article 19.- Performance of scientific and technological tasks without using State budget
The State encourages all organizations and individuals to organize by themselves or participate in the performance of scientific and technological tasks in all lawful forms.
...
...
...
1. The results of scientific and technological tasks implemented with State budget, when completed, must be subject to objective and accurate pre-acceptance evaluation by specialized science and technology councils set up under the provisions of Article 24 of this Decree. The State management bodies of various levels in charge of science and technology shall, according to their respective jurisdiction, decide to recognize and announce the results of performance of the scientific and technological tasks.
2. Scientific and technological tasks performed without funding by the State budget but with wide scope of their application nationwide, in a branch or a locality or with effects on national interests, defense, security, environment, health and life of people must be appraised by the State management agencies of various levels in charge of science and technology before their application.
Article 22.- Councils for determination of scientific and technological tasks
1. The councils for determination of scientific and technological tasks shall be set up by the heads of agencies or organizations according to their respective jurisdiction to advise on the determination of scientific and technological tasks. The councils are tasked to analyze, evaluate and recommend objectives, requirements and expected results of the programs, subjects and/or projects. Opinions of the council members and recommendations of the councils must be recorded in writing.
2. Such a council shall be composed of the president, two critical members and other members. Its members shall include:
a) Representatives of State management bodies, production and business organizations and other relevant organizations, making up 1/2 of its membership;
b) Scientists and technologists working in relevant scientific and technological domains, making up 1/2 of its membership.
The council members must be prestigious and impartial experts with appropriate professional qualifications and profound knowledge about the scientific and technological fields which they are assigned to advise on for task determination.
...
...
...
1. The councils for selection of organizations and individuals to perform scientific and technological tasks shall be set up by the heads of agencies or organizations according to their respective jurisdiction to advise on the selection of organizations and/or individuals for assuming the prime responsibility for performance of scientific and technological tasks.
2. Such a council shall be composed of the president, two critical members and other members. Its members shall include:
a) Representatives of the concerned State management bodies, production-business organizations utilizing scientific and technological achievements and other relevant organizations, making up 1/3 of its membership;
b) Scientists and technologists working in relevant scientific and technological fields, making up 2/3 of its membership.
The council members must be prestigious and impartial experts with appropriate professional qualifications and profound knowledge about the scientific and technological fields they are assigned to advise on for selection.
3. In case of necessity, the State management agencies in charge of science and technology shall, according to their respective jurisdictions, appoint two unregistered critical experts.
1. The heads of agencies or organizations shall, according to their respective jurisdiction, set up councils for pre-acceptance evaluation of results of implementation of scientific and technological tasks with the use of State budget upon the accomplishment thereof.
2. The councils for pre-acceptance evaluation of results of implementation of scientific and technological tasks shall conduct the evaluation and acceptance according to objectives, requirements, contents, results and schedule inscribed in the already signed contracts and take responsibility before the competent State management agencies in charge of science and technology for pre-acceptance evaluation of results of implementation of the scientific and technological tasks.
...
...
...
a) Representatives of the concerned State management agencies, production-business organizations and other organizations, making up 1/3 of its membership;
b) Scientists and technologists working in the scientific and technological fields assigned to them for evaluation, making up 2/3 of its membership.
The council members are prestigious and impartial experts with appropriate professional qualifications and profound knowledge about the scientific and technological fields assigned to them for pre-acceptance evaluation.
4. In case of necessity, the State management agencies of various levels in charge of science and technology shall, according to their respective jurisdiction, appoint two unregistered critical experts.
Article 25.- Principles for operations of the science and technology councils
1. The science and technology councils defined in Articles 22,23 and 24 of this Decree shall work on the principle of democracy. The council members shall discuss openly the tasks assigned for consultancy. The council members shall give their comments in writing and be accountable therefor.
2. The councils shall give points according to the criteria and point scale or ranking prescribed by the Minister of Science and Technology.
3. Funding for the operations of the science and technology councils defined in Articles 23 and 24 of this Decree shall be estimated as a separate amount in the total funding of programs, subjects or projects. This funding amount shall be assigned to the program-, subject- or project-managing agencies for management. The funding for the scientific and technological task- determining councils defined in Article 22 of this Decree shall be channeled from the non-business scientific funding. Members of the science and technology councils defined in Articles 22,23 and 24 of this Decree shall be paid with remuneration for the performance of the councils’ tasks from the funding sources prescribed in this Clause.
4. In case of necessity, the State management agencies of various levels in charge of science and technology may set up other science and technology councils to advise them on each specific matter.
...
...
...
1. The scientific and technological contracts shall include contracts for scientific research and technological development, contracts for technological transfer and contracts for scientific and technological services.
2. Scientific and technological contracts shall be effected on the basis of voluntariness, mutual agreement, equality and law compliance.
3. The scientific and technological contracts must be made in writing.
Article 27.- Major contents of scientific and technological contracts
1. The contracts for scientific research and technological development must contain the following major contents:
a) The names, addresses and accounts of the contractual parties;
b) The names of the scientific and technological tasks, research methods, major contents and results to be achieved;
c) Locations, duration and mode of contractual performance;
d) The provisions on the use of research results and division of profits from the use of results;
...
...
...
f) The intellectual property right;
g) The implementation expenses, way of payment therefor;
h) Liabilities for contractual breaches and dispute settlement;
i) Other agreements.
2. The contents of the contracts for technological transfer or for scientific and technological services shall comply with the provisions of civil legislation.
Article 28.- Rights and obligations of ordering parties
1. The parties ordering scientific and technological contracts shall have the right to:
a) Own the scientific and technological results, if not otherwise agreed upon in the contracts;
b) Transfer scientific and technological results to other persons.
...
...
...
a) Supply necessary information for the contractual performance;
b) Pay fully the material expenses to the contract-undertaking parties as agreed upon in the contracts.
Article 29.- Rights and obligations of the contract-undertaking parties
1. The parties undertaking to perform the scientific and technological contracts shall have the right to:
a) Enjoy the copyright over scientific and technological research results as agreed upon in the contracts;
b) Request the ordering parties to supply information and other conditions as agreed upon in the contracts for the contractual performance;
c) Receive funding from the ordering parties for the contractual performance.
2. The parties undertaking to perform scientific and technological contracts shall have the obligations to:
a) Deliver and hand over products strictly according to the contractual regulations;
...
...
...
Article 30.- Settling contractual disputes
1. The parties breaching scientific and techno-logical contracts shall have to pay compensation for damage caused by their faults and be fined according to the contractual regulations or law provisions.
2. Disputes over scientific and technological contracts shall be settled first of all according to the principles of conciliation, mutual agreement between the parties; if disputes cannot be settled by the parties themselves, they shall be settled at courts, if there is no agreement on arbitration.
APPLICATION OF RESULTS
OF SCIENTIFIC RESEARCH AND TECHNOLOGICAL DEVELOPMENT
Article 31.- Use and transfer of results of scientific and technological research
Basing themselves on the results of pre-acceptance evaluation by science councils, the heads of the State management agencies of various levels in charge of science and technology shall decide to accept the results and the announcement, use as well as transfer of such results. The scientific and technological research results due to the State investment in service of public utility must be announced publicly and widely so that organizations and individuals apply them to production and life. The subject or project managers as well as subject- or project- executing agencies shall have to effect the transfer of research results for application to production and life under the provisions of law.
Article 32.- Encouraging innovations, technical modifications, production rationalization
1. The State management agencies of all levels in charge of science and technology shall adopt measures to step up the movements for innovations, technical modifications and production rationalization; develop scientific and technological services; enhance the popularization of scientific and technological knowledge in order to raise the people’s intellectual level in term of science and technology.
...
...
...
3. Enterprises organizing contests for innovations, technical modifications and/or production rationalization shall have the funding therefor calculated as their investment in scientific and technological activities prescribed in Article 40 of the Science and Technology Law.
4. The State encourages all organizations and individuals to organize by themselves or fund the organization of contests for creations, innovations, technical modifications and/or production rationalization.
1. Organizations and individuals that apply the results of scientific research and technological development to renew their management and technologies, to enhance the competitiveness of their products shall be entitled to enjoy tax and credit preferences as provided for in Articles 42 and 43 of this Decree.
2. Organizations and individuals that conduct scientific and technological activities, when assigning or transferring their research and development results into production and life, shall be given conditions to advertise, introduce and demonstrate their research and development results; to participate in exhibitions, trade fairs.
3. Profits gained from the assignment or transfer of research and development results shall be divided to the scientists who have created the results, to the result owners, to scientific and technological organizations of the scientists and to the brokers. The division percentages shall be agreed upon in the scientific and technological contracts among the parties. Where the technologies are created with the use of State budget, the authors shall receive at most 30% of the payment prices of technological transfer; the authors and collectives organizing the successful application of scientific and technological results shall be rewarded by the scientific and technological result-using parties with a maximum value being equal to 30% of the after-tax additional incomes for a period of 3 years.
4. The brokers for the application of scientific and technological results created with the State budget shall enjoy at most 10% of the payment prices of the technological transfers; the specific amounts and responsibility for payment of this amount shall be agreed upon by the parties.
The State management agencies of all levels in charge of science and technology shall take the following measures to step up the application of scientific research and technological development results to formulating industrialization and modernization models and solutions; renew and perfect socio-economic management; build an advanced and national culture and the new-typed Vietnamese:
...
...
...
2. Providing funding support, organizing the deployment of experimental models, disseminating and widely multiplying the application of research and development results;
3. Adequately rewarding organizations and individuals that have their research and development projects applied to life.
Article 35.- Applying scientific research and technological development results in enterprises
1. Enterprises applying home-created technologies shall be technologically certified by State management agencies in charge of science and technology in order to enjoy preferences when borrowing credits at banks.
2. Enterprises applying home-created technologies of which the State is the owner shall be exempt from the payment for technology transfer to the State, but have to pay the authors as provided for in Clause 3, Article 33 of this Decree.
1. The Government shall set up and encourage organizations and individuals to set up establishments for technological transfer and application; expand the networks of organizations for agricultural, forestrial and fishery promotion, scientific and technological services in localities so as to provide services suitable to peasants’ requirements; intensify investment in the implementation of scientific and technological projects, build a number of experimental models on scientific and technological application in rural areas, regions meeting with socio-economic difficulties and regions meeting with exceptional socio-economic difficulties.
2. The People’s Committees of all level shall have to create conditions for organizations, individuals, scientific and technological experts within and without the country to organize the widespread application of scientific and technological achievements in localities; create conditions in term of residential houses and land, travel means, equipment and working places for science and technology workers working in the localities.
The provincial/municipal People’s Committees shall partly provide funding support or subsidy for peasants who apply new technologies to production and life.
...
...
...
Article 37.- Investment projects, socio-economic development programs
1. Investment projects of class A, B and socio-economic development programs may draw up spending items for research and development in service of building scientific grounds for projects, programs, stages of investment preparation and investment execution and the settlement of scientific and technological matters arising in the course of implementing programs and projects.
2. Investment projects and socio-economic development programs must be appraised by State management agencies in charge of science and technology in term of scientific grounds and technology in the stage of formulating projects and programs. The levels which manage programs and projects shall have to organize the science and technology councils for appraisal thereof.
3. Technologies put to application in the stage of investment in projects, programs must be appraised. Depending on the scale and nature of projects, programs, the decentralization of technological appraisal shall be compatible with the decentralization of appraisal of construction investment projects.
4. The Ministry of Science and Technology shall guide in detail the order and procedures of appraising the scientific grounds and appraising technologies of investment projects, socio-economic development programs.
MEASURES TO ENSURE
SCIENTIFIC AND TECHNOLOGICAL DEVELOPMENT
Article 38.- Training human resources, fostering talents in science and technology
1. The Ministry of Education and Training shall assume the prime responsibility and coordinate with the Ministry of Science and Technology and the Ministry of Planning and Investment in drawing up general plans for training science and technology human resources and submit them to the Government for decision.
...
...
...
3. Organizations and individuals having full capability and conditions prescribed by the State shall be equal in participating in human resource training and talent fostering in various forms, including the granting of scholarship for Vietnamese citizens to study and raise their professional skills at home and abroad. Expenses for training science and technology human resources of enterprises shall be accounted into reasonable expenses when determining taxable incomes.
Article 39.- Employing science and technology human resources
1. The State-run scientific and technological organizations shall have to build up strong scientific collectives; provide organizational and material support for provisional scientific collectives involving individuals engaged in scientific and technological activities from different scientific and technological organizations to have conditions for participation in and implementation of scientific and technological tasks of the State.
2. Annually, the State management agencies in charge of science and technology, scientific and technological organizations shall consider and reward outstanding scientific and technological projects; reward and provide special privileges in term of working and living conditions for scientists and technologists having talents and great contributions in scientific and technological activities.
3. The State-run research and development organizations must publicly announce the criteria for and organize the selection of science and technology personnel in order to ensure the selection of persons with true research capability. The consideration for appointment, employment and rewards must be based on the scientific and technological results of individuals.
4. Individuals in scientific and technological organizations are entitled to work on the part-time basis for other scientific and technological organizations under labor contracts. The Ministry of Science and Technology shall specify the part-time working regime in scientific and technological organizations.
Article 40.- Scientific positions
1. The scientific positions include research assistant, researcher, principal researcher and senior researcher.
2. Bases for consideration of appointment to scientific positions shall include:
...
...
...
b) Persons who have outstanding scientific and technological research projects or get high scientific and technological prizes shall be given priority in consideration of appointment to higher scientific positions, regardless of their incumbent positions and duration of scientific and technological activities.
3. The Ministry of the Interior shall assume the prime responsibility and coordinate with the Ministry of Science and Technology in prescribing the criteria for each scientific position, the procedures for consideration and appointment to scientific positions.
Article 41.- Enterprises investing in scientific and technological development
1. Enterprises are entitled to calculate their expenses for scientific and technological development into reasonable expenses when determining the taxable incomes, which include expenses for scientific research and technological development, purchase of technological information and materials, industrial property and expenses for innovations, technical modifications and production rationalization. Amounts of investment in technology to create fixed assets shall be deducted gradually into production costs.
2. Enterprises may set up scientific and technological development funds in order to take initiative in making investment in science and technology according to their development requirements. The funding sources for these funds shall be formulated from pre-tax profits of the enterprises and other sources, if any.
3. Enterprises which invest in scientific and technological research in the priority and key fields of the State shall be considered by competent State agencies in charge of science and technology for financial support from non-business science and technology budget or considered by the scientific and technological development funds for financial support according to the regulation on the funds’ operations. The Ministry of Science and Technology shall specify the conditions and procedures for consideration of financial support for these subjects.
4. Apart from the privileges provided for in Clauses 1,2 and 3 of this Article, the enterprises investing in scientific and technological development are also entitled to enjoy other privileges under the current law provisions.
Article 42.- Tax policies for scientific and technological activities
1. Income earned from the implementation of contracts for scientific research and technological development shall be free from enterprise income tax. The determination of non-taxable income shall comply with the provisions on enterprise income tax.
...
...
...
3. Machinery, equipment, accessories, supplies, transport means which cannot be produced at home yet or can be produced at home but fail to meet the requirements; the priority technologies; documents, books, newspapers, electronic information on science and technology, hi-tech equipment imported for direct use in research and development activities, shall be free from import tax and value added tax.
4. Products which are being in the period of trial production shall not be subject to enterprise income tax and value added tax.
5. Enterprises investing in renewing technologies, raising technological levels, turning out projects from new technologies applied for the first time in Vietnam shall be entitled to exemption or reduction of enterprise income tax on the additional income from those activities. Specific cases are prescribed as follows:
a) Domestic enterprises shall comply with the provisions of the Domestic Investment Promotion Law;
b) Foreign-invested enterprises and foreign parties to business cooperation contracts shall comply with the provisions of the Law on Foreign Investment in Vietnam.
6. Taxes levied on activities of scientific and technological consultancy, technological transfer and technological export are defined as follows:
a) Value added tax shall not be collected from technological transfers. Activities of scientific and technological consultancy shall be entitled to the lowest rate of value added tax in the tax bracket;
b) Activities of scientific and technological consultancy, technological transfer and technological export shall enjoy enterprise income tax preference.
7. Scientific and technological information service activities shall enjoy the highest preferences regarding enterprise income tax and the lowest rate of the value added tax.
...
...
...
Article 43.- Credit policies for scientific and technological activities
1. Organizations and individuals engaged in scientific and technological activities and borrowing medium- and long-term loans to conduct scientific and technological activities shall enjoy preferential interest rates when borrowing capital at the scientific and technological development funds and other funds.
2. Credit privileges for organizations and individuals that borrow capital for investment in scientific and technological activities shall comply with the charters of the funds where capital is borrowed.
3. In case of borrowing capital from commercial banks for investment in scientific and technological activities, organizations and individuals shall be considered by the Development Assistance Fund for post-investment interest rate support or for investment credit guarantee according to the Fund’s Charter.
4. Scientific and technological programs, subjects or projects, which are in direct service of the State’s key socio-economic programs and the development of the national science and technology resources and demand great capital, shall be given priority in consideration for the use of official development assistance (ODA) capital by mode of:
a) Providing non-refundable aid or preferential loans for research and development activities;
b) Providing loans for investment projects on building of scientific and technological resources or to be- recovered loans for projects on application of scientific and technological results.
5. The Ministry of Science and Technology shall assume the prime responsibility and coordinate with the Ministry of Planning and Investment, the Finance Ministry, the Vietnam State Bank and the concerned ministries and ministerial-level agencies in specifying the credit privileges for scientific and technological activities prescribed in this Article.
Article 44.- Privileges for building of material and technical foundations
...
...
...
2. Scientific and technological organizations which rent land for the construction of material and technical foundations for scientific and technological activities shall enjoy privileges at the highest level for land rent and the lowest level for land use tax as provided for by tax legislation.
3. The Ministry of Science and Technology shall assume the prime responsibility and coordinate with the Ministry of Planning and Investment, the Finance Ministry and concerned ministries in promulgating the Regulation on management and operation of key national laboratories in order to ensure the efficient operation of these establishments.
Article 45.- Evaluation of scientific and technological activities
1. The Ministry of Science and Technology shall specify the criteria, methods, order and organization of the evaluation of scientific and technological activities.
2. The State management agencies of all levels in charge of science and technology must inspect and evaluate scientific and technological activities in the fields under their respective management.
INTERNATIONAL
COOPERATION IN SCIENCE AND TECHNOLOGY
1. Intellectuals being overseas Vietnamese and talented specialists in the world shall be encouraged to take part in scientific and technological activities in Vietnam in various forms.
...
...
...
a) To enjoy the rights and fulfill the obligations like Vietnamese individuals engaged in scientific and technological activities, as provided for in Articles 17 and 18 of the Law on Science and Technology;
b) To have the rights and obligations according to scientific and technological contracts or the agreements, already concluded with Vietnamese organizations and/or individuals;
c) To be appointed to scientific and technological posts defined in Article 36 of the Law on Science and Technology;
d) To enjoy other privileges as provided for law.
3. Intellectuals being overseas Vietnamese and foreign talented specialists, who render great services to Vietnam’s cause of scientific and technological development, shall be commended or rewarded, or considered by the Vietnamese State for scientific and technological awards of Vietnam.
1. Vietnamese organizations and individuals are entitled to receive financial assistance from foreign organizations and individuals as well as international organizations for scientific and technological activities in various scientific and technological domains and have to ensure that these activities do not cause harms to the defense, security, environment, morality, fine traditions of the Vietnamese nation and do not violate the provisions in Article 8 of the Law on Science and Technology.
2. Vietnamese organizations and individuals, that are engaged in scientific and technological activities, may join in scientific and technological organizations, scientific and technological societies; participate in research activities, training, consultancy provision, scientific and technological conferences organized by international organizations, foreign organizations and/or individuals; participate in cooperation activities for the performance of scientific and technological tasks of Vietnam. Such participation by organizations and individuals must not violate the provisions in Article 8 of the Law on Science and Technology.
3. Vietnamese organizations and individuals engaged in scientific and technological activities are entitled to perform the scientific and technological tasks of Vietnam overseas; to carry abroad relevant documents and testing samples in service of research activities as provided for by law.
...
...
...
Article 48.- Scientific and technological organizations with foreign capital
1. Overseas Vietnamese, international organizations and foreign organizations as well as individuals may set up scientific and technological organizations in Vietnam in forms of cooperation or association between foreign organizations or individuals and Vietnamese organizations and/or individuals, or 100% foreign capital (called scientific and technological organizations with foreign capital for short).
2. Scientific and technological activities of scientific and technological organizations with foreign capital must not cause harms to the security, defense, environment, morality, fine traditions of the Vietnamese nation and must not violate the provisions in Article 8 of the Law on Science and Technology.
3. Scientific and technological organizations with foreign capital may be set up according to the Enterprise Law, the Law on Foreign Investment in Vietnam or the Domestic Investment Promotion Law and must abide by the regulations on the conditions for establishment, rights and obligations, procedures and dossiers of application for licenses, incentive and privilege regimes prescribed in corresponding legal documents and the Law on Science and Technology.
4. Research and development organizations with foreign capital may be set up for non-profit purposes and must abide by the regulations on the conditions for establishment, rights and obligations, procedures, dossiers of application for operation registration, organization and operation charters, are entitled to enjoy incentive and preferential regimes like those prescribed for Vietnamese scientific and technological organizations and individuals.
STATE MANAGEMENT OVER
SCIENCE AND TECHNOLOGY
Article 49.- Tasks and powers of the Ministry of Science and Technology
The Ministry of Science and Technology shall be accountable to the Government for performing the State management over science and technology throughout the country and have the tasks and powers prescribed by the Government.
...
...
...
The ministries and ministerial-level agencies shall perform the State management over science and technology and be responsible for scientific and technological activities in the branches or domains assigned to them for management; have the responsibility to determine and organize the implementation of scientific and techno-logical tasks in the domains assigned to them for management; ensure the efficient management and use of scientific and technological resources of their respective branches; have full-time science and technology management organizations to assist the ministers or the heads of the ministerial-level agencies in performing the State management over science and technology according to the Government’s regulations.
1. The People’s Committees of the provinces and centrally-run cities shall perform the State management over science and technology in their respective localities, be responsible for scientific and technological activities of their localities; have the responsibility to determine and organize the implementation of scientific and techno-logical tasks of the provinces or cities; organize the application of scientific and technological achievements to production and life in their localities; ensure the efficient management and use of scientific and technological resources of their respective localities.
The provincial/municipal Services of Science and Technology shall be accountable to the provincial/municipal People’s Committees for performing the State management over science and technology in the localities.
2. The People’s Committees of rural districts, urban districts, provincial capitals and cities shall perform the State management over science and technology in their respective localities as assigned by the provincial/municipal People’s Committees. Basing themselves on the specific conditions of their localities, the People’s Committee presidents shall decide on appropriate forms and modes of science and technology management within the Government-assigned frameworks of organizational apparatuses of rural districts, urban districts, provincial capitals and cities.
Article 52.- Implementation effect
This Decree takes effect 15 days after its signing.
...
...
...
Article 53.- Implementation guidance and responsibility
1. The ministers of Science and Technology; Planning and Investment; Finance; Education and Training; Labor, War Invalids and Social Affairs; and the Interior shall, depending on their respective functions, tasks and powers, guide the implementation of this Decree.
2. The ministers, the heads of the ministerial-level agencies, the heads of the agencies attached to the Government, the presidents of the provincial/municipal People’s Committees shall have to implement this Decree.
ON BEHALF OF THE GOVERNMENT
PRIME MINISTER
Phan Van Khai
;
Nghị định 81/2002/NĐ-CP Hướng dẫn Luật Khoa học và công nghệ
Số hiệu: | 81/2002/NĐ-CP |
---|---|
Loại văn bản: | Nghị định |
Nơi ban hành: | Chính phủ |
Người ký: | Phan Văn Khải |
Ngày ban hành: | 17/10/2002 |
Ngày hiệu lực: | Đã biết |
Tình trạng: | Đã biết |
Văn bản đang xem
Nghị định 81/2002/NĐ-CP Hướng dẫn Luật Khoa học và công nghệ
Chưa có Video