VĂN PHÒNG CHÍNH
PHỦ |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 176/TB-VPCP |
Hà Nội, ngày 20 tháng 09 năm 2007 |
KẾT LUẬN CỦA PHÓ THỦ TƯỚNG NGUYỄN THIỆN NHÂN TẠI BUỔI LÀM VIỆC VỚI BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Ngày 29 tháng 8 năm 2007, tại Bộ Khoa học và Công nghệ, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã làm việc với tập thể lãnh đạo Bộ và đại diện lãnh đạo các đơn vị trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ. Cùng dự có đại diện lãnh đạo các Bộ, cơ quan: Giáo dục và Đào tạo,Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Công thương, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Xây dựng, Giao thông vận tải, Thông tin và Truyền thông, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam và Văn phòng Chính phủ.
Sau khi nghe Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ báo cáo kết quả thực hiện chương trình công tác năm 2007, định hướng phát triển khoa học và công nghệ đến năm 2010 và ý kiến phát biểu của các đại biểu dự họp, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã kết luận như sau:
Nhất trí về cơ bản với báo cáo của Bộ Khoa học và Công nghệ.
Trong những năm qua, hoạt động khoa học công nghệ nói chung và công tác quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ đã có nhiều chuyển biến tích cực. Bộ Khoa học và Công nghệ đã tập trung tham mưu cho Chính phủ xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động khoa học và công nghệ với nhiều luật chuyên ngành và nhiều văn bản quy phạm pháp luật có tầm quan trọng trong hoạch định chiến lược, chính sách và đổi mới cơ chế quản lý hoạt động khoa học và công nghệ. Đây là cố gắng lớn, thể hiện ý chí đổi mới và tinh thần trách nhiệm của Bộ Khoa học và Công nghệ trong việc nâng cao hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ, đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.
Bộ Khoa học và Công nghệ đã tập trung chỉ đạo triển khai một bước các cơ chế, chính sách gắn hoạt động khoa học và công nghệ với thị trường, thúc đẩy chuyển đổi hệ thống các tổ chức khoa học và công nghệ sang hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, doanh nghiệp khoa học và công nghệ; đổi mới một bước phương thức tổ chức thực hiện các chương trình, đề tài, dự án khoa học công nghệ.
Thị trường khoa học và công nghệ bước đầu được thúc đẩy hình thành và phát triển. Các chợ công nghệ - thiết bị và sàn giao dịch công nghệ được tổ chức định kỳ ở một số địa phương, góp phần thúc đẩy đổi mới, chuyển giao công nghệ trong các doanh nghiệp, thu hút được sự tham gia của đông đảo các nhà đầu tư công nghệ trong nước và nước ngoài, tạo môi trường thuận lợi và động lực gắn kết hoạt động nghiên cứu với đào tạo sản xuất, kinh doanh.
Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ trên một số lĩnh vực đã gắn với ứng dụng vào thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của các ngành, các địa phương, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa.
Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập cần sớm khắc phục để khoa học và công nghệ thực sự trở thành động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế:
- Đầu tư cho khoa học và công nghệ vẫn chủ yếu từ ngân sách nhà nước, hiệu quả sử dụng chưa cao, chưa huy động được sự tham gia đóng góp của xã hội và các doanh nghiệp. Các cá nhân, tổ chức khoa học và công nghệ chưa chủ động thích ứng với cơ chế thị trường và yêu cầu của thực tiễn;
- Trình độ nghiên cứu của các tổ chức khoa học và công nghệ và trình độ công nghệ trong các doanh nghiệp còn thấp. Lực lượng cán bộ khoa học và công nghệ còn thiếu và yếu, chưa có cơ chế, chính sách thỏa đáng để tập hợp đội ngũ giải quyết các nhiệm vụ khoa học và công nghệ lớn ở tầm quốc gia;
- Các cơ chế, chính sách đã ban hành đối với khoa học và công nghệ chậm đi vào cuộc sống để tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, tạo động lực cho khoa học và công nghệ phát triển.
III. PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ TRONG THỜI GIAN TỚI
Đồng ý về cơ bản với phương hướng, nhiệm vụ trong những tháng cuối năm năm 2007 và giai đoạn đến năm 2010 của Bộ Khoa học và Công nghệ. Trong thời gian tới, Bộ Khoa học và Công nghệ cần tập trung bám sát các định hướng, nhiệm vụ cụ thể sau:
Để thúc đẩy hoạt động khoa học và công nghệ, về phương diện quản lý nhà nước, cần làm rõ 3 chủ thể: chủ thể cần đến khoa học và công nghệ; chủ thể làm khoa học và công nghệ; chủ thể chi cho hoạt động khoa học và công nghệ, từ đó xây dựng cơ chế, chính sách phát triển khoa học và công nghệ sát với nhu cầu thực tế.
a) Chủ thể cần đến khoa học và công nghệ trước hết là các doanh nghiệp, những người sản xuất kinh doanh, các cơ quan quản lý các cấp của nhà nước và bản thân đội ngũ các nhà khoa học và công nghệ.
Mỗi chủ thể trên đều có những nhu cầu cụ thể về hoạt động khoa học và công nghệ, sẽ chủ động giải quyết các nhu cầu của mình, vì sự tồn tại và phát triển của mình. Tuy nhiên, ở cấp quốc gia để phát huy tối đa tiềm năng khoa học và công nghệ của đất nước cho phát triển, cần xác định cho được danh mục các sản phẩm quốc gia, là những sản phẩm có quy mô lớn, có tác dụng tích cực đến phát triển đất nước, có sự đóng góp của khoa học và công nghệ trong nước trong việc thiết kế, chế tạo sản phẩm, có tính cạnh tranh cao, đem lại hiệu quả cao cho người sử dụng. Có như vậy các hoạt động nghiên cứu khoa họac và phát triển công nghệ mới thực sự phục vụ nhu cầu của phát triển kinh tế - xã hội.
Việc tập hợp, phân tích, chọn lọc danh mục các sản phẩm quốc gia với các yêu cầu cụ thể cho hoạt động nghiên cứu khoa học để hình thành sản phẩm cần được Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp cùng các cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương thực hiện thường xuyên để hình thành các đặt hàng từ phía các doanh nghiệp, từ phía nhà nước, trên cơ sở đó giao nhiệm vụ nghiên cứu theo địa chỉ, gắn liền với đó là cơ chế kinh phí phù hợp để thực hiện.
Cần sớm xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá việc thực hiện các nhiệm vụ khoa học công nghệ, kể cả các nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản, có cơ chế khen thưởng thích đáng để động viên, khuyến khích các nhà khoa học và công nghệ, các đơn vị đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ có hiệu quả cao.
Trong tháng 12 năm 2007, Bộ Khoa học và Công nghệ cần xây dựng cơ chế thống nhất để xác định nhu cầu và đơn đặt hàng của các chủ thể đối với các sản phẩm có chứa hàm lượng khoa học và công nghệ cao, có tác dụng quan trọng đối với phát triển đất nước, từ đó hình thành danh mục các sản phẩm quốc gia.
b) Chủ thể làm khoa học và công nghệ trước hết là các tổ chức khoa học và công nghệ (bao gồm các viện nghiên cứu, các trường đại học) và các doanh nghiệp, một bộ phận trong các cơ quan nhà nước, đoàn thể và các lực lượng làm khoa học và công nghệ khác trong xã hội.
Bộ Khoa học và Công nghệ đề xuất cơ chế phối hợp ba bên nhà nước - viện nghiên cứu - doanh nghiệp trong việc xây dựng các nhiệm vụ khoa học và công nghệ và đồng tài trợ cho nhiệm vụ khoa học và công nghệ có tính cấp thiết, có hiệu quả cao trong các ngành, lĩnh vực; đồng thời hoàn thiện các cơ chế, chính sách để thúc đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ trong toàn xã hội.
Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam và Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng Chương trình đào tạo tiến sĩ cho các viện nghiên cứu theo một bộ phận của Chương trình đào tạo 20.000 tiến sỹ tới năm 2020 để sớm hình thành đội ngũ cán bộ nghiên cứu chuyên nghiệp có trình độ cao, làm nòng cốt cho các cơ sở nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trong nước.
c) Chủ thể chi cho hoạt động khoa học và công nghệ hiện nay chủ yếu là nhà nước, một phần là các doanh nghiệp. Nguồn lực huy động từ xã hội cho hoạt động khoa học và công nghệ chưa nhiều.
Cần xây dựng cơ chế và giải pháp để nâng cao hiệu quả đầu tư cho khoa học và công nghệ, trước hết là sử dụng có hiệu quả cao ngân sách của nhà nước, coi hiệu quả đầu tư là vấn đề hàng đầu.
Trong điều kiện ngân sách nhà nước chi cho khoa học và công nghệ còn hạn hẹp, cần huy động mọi thành phần xã hội, đặc biệt là doanh nghiệp và các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư cho hoạt động khoa học và công nghệ.
a) Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Tổ chức triển khai Chương trình tuyên truyền, phổ biến pháp luật về khoa học và công nghệ cho các Bộ, ngành và địa phương trong cả nước, cho các viện nghiên cứu, trường đại học, các doanh nghiệp. Bảo đảm trong vòng 6 tháng, quán triệt tới cấp cơ sở các cơ chế, chính sách và các văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành trong lĩnh vực khoa học và công nghệ;
- Xây dựng danh mục các sản phẩm quốc gia (kèm theo danh mục này là các chương trình, các nhiệm vụ, các đề tài nghiên cứu khoa học, đào tạo). Các sản phẩm quốc gia cần được xây dựng tổng hợp từ 3 nguồn: các cơ quan quản lý (Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương), các doanh nghiệp, các cơ quan khoa học và công nghệ. Xác định nguồn kinh phí và cơ chế thực hiện các sản phẩm quốc gia này. Bộ cần báo cáo Thủ tướng Chính phủ danh mục này trước ngày 31 tháng 10 năm 2007;
- Xây dựng văn bản hướng dẫn các viện nghiên cứu, trường đại học triển khai hợp tác nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ với nước ngoài, theo đặt hàng của nước ngoài, để ban hành trong tháng 12 năm 2007;
- Phối hợp với Bộ Tài chính công bố công khai cơ cấu phân bổ và hướng dẫn thực hiện việc chi kinh phí sự nghiệp cho các Bộ, ngành, địa phương kể từ năm 2008; nghiên cứu xây dựng cơ chế quản lý kinh phí nghiên cứu khoa học và công nghệ theo kết quả, hiệu quả đầu ra để thí điểm áp dụng từ 2008.
- Phối hợp với Văn phòng Chính phủ bố trí chương trình cụ thể để Phó Thủ tướng định kỳ hàng năm làm việc với Bộ Khoa học và Công nghệ 2 lần (vào cuối quý II và quý IV); giao ban liên khối khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, thông tin và truyền thông 2 lần (vào cuối quý I và quý III); thăm và làm việc với một số cơ sở để kịp thời nắm bắt tình hình và chỉ đạo hoạt động khoa học và công nghệ trong các ngành, lĩnh vực.
b) Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì cùng Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng văn bản hướng dẫn các ngành, các địa phương, xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn đến năm 2010.
c) Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ đổi mới cơ chế quản lý và phân cấp quản lý kinh phí sự nghiệp khoa học và công nghệ để thực hiện từ năm 2008, theo hướng nâng cao tính tự chủ của các đơn vị khoa học và công nghệ, gắn với chất lượng và hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ.
d) Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Khoa học và Công nghệ và các cơ quan có liên quan khẩn trương hoàn thiện quy định về tiêu chuẩn, thủ tục bổ nhiệm các chức danh giáo sư, phó giáo sư trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
đ) Bộ Nội vụ hoàn thiện Nghị định quy định việc kéo dài thời gian làm việc, tuổi nghỉ hưu của các giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ khoa học và công nghệ trình Chính phủ trước ngày 30 tháng 10 năm 2007.
IV. VỀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CỦA BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
1. Bộ Khoa học và Công nghệ cần chủ động phối hợp với Bộ Tài chính và các Bộ, ngành liên quan xây dựng cơ chế quản lý sử dụng, kinh phí sự nghiệp khoa học và công nghệ để hướng dẫn các Bộ, ngành, địa phương thực hiện. Các Bộ, ngành, địa phương cần nâng cao trách nhiệm trong sử dụng kinh phí hoạt động khoa học và công nghệ, đảm bào đúng mục đích và có hiệu quả.
2. Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì cùng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các Bộ, ngành liên quan xây dựng các quy định cụ thể để hướng dẫn các cơ quan thực hiện tốt công tác thống kê khoa học và công nghệ, hình thành cơ sở dữ liệu quốc gia về khoa học và công nghệ, làm căn cứ cho việc đánh giá hiệu quả hoạt động và xây dựng chính sách phát triển khoa học và công nghệ.
3. Đồng ý về nguyên tắc việc hình thành hệ thống ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp khoa học và công nghệ trong các trường, các viện từ các kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ nhằm thúc đẩy thương mại hóa, chuyển giao kết quả nghiên cứu cho khu vực sản xuất, kinh doanh. Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo tiến hành sơ kết hoạt động này và đề xuất cụ thể.
4. Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông làm việc với Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam và các cơ quan báo chí khác về việc tổ chức các chương trình tuyên truyền, giới thiệu cơ chế, chính sách và kết quả hoạt động khoa học và công nghệ trên các phương tiện thông tin đại chúng.
5. Bộ Khoa học và Công nghệ định kỳ tổ chức hội nghị khoa học và công nghệ toàn quốc vào tháng giêng hằng năm để tổng kết, đánh giá các kết quả các hoạt động khoa học và công nghệ, khen thưởng kịp thời các công trình khoa học và công nghệ xuất sắc trong năm; biên soạn tài liệu giới thiệu các công trình tiêu biểu có ứng dụng đột phá trong các ngành, các lĩnh vực, các doanh nghiệp để công bố đồng thời trong hội nghị này.
Văn phòng Chính phủ thông báo để Bộ Khoa học và Công nghệ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương biết, thực hiện./.
Nơi nhận: |
KT.
BỘ TRƯỞNG, CHỦ NHIỆM |
Thông báo số 176/TB-VPCP về kết luận của phó thủ tướng nguyễn thiện nhân tại buổi làm việc với Bộ Khoa học và Công nghệ do Văn phòng Chính phủ ban hành
Số hiệu: | 176/TB-VPCP |
---|---|
Loại văn bản: | Thông báo |
Nơi ban hành: | Văn phòng Chính phủ |
Người ký: | Trần Quốc Toản |
Ngày ban hành: | 20/09/2007 |
Ngày hiệu lực: | Đã biết |
Tình trạng: | Đã biết |
Văn bản đang xem
Thông báo số 176/TB-VPCP về kết luận của phó thủ tướng nguyễn thiện nhân tại buổi làm việc với Bộ Khoa học và Công nghệ do Văn phòng Chính phủ ban hành
Chưa có Video