CHÍNH PHỦ ****** |
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số : 53/2005/NĐ-CP |
Hà Nội, ngày 19 tháng 4 năm 2005 |
NGHỊ ĐỊNH
QUY ĐỊNH CHI TIẾT VÀ HƯỚNG DẪN THI HÀNH LUẬT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VÀ LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính
phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Luật Khiếu nại, tố cáo ngày 02 tháng 12 năm 1998;
Căn cứ Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố
cáo
ngày 15 tháng 6 năm 2004;
Theo đề nghị của Tổng thanh tra,
NGHỊ ĐỊNH :
Chương 1:
KHIẾU NẠI, GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH, HÀNH VI HÀNH CHÍNH
MỤC 1: KHIẾU NẠI VÀ VIỆC XỬ LÝ ĐƠN KHIẾU NẠI
Điều 1. Cơ quan nhà nước thụ lý khiếu nại để giải quyết khi có đủ các điều kiện sau đây:
1. Người khiếu nại phải là người có quyền, lợi ích hợp pháp chịu tác động trực tiếp bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính mà mình khiếu nại.
2. Người khiếu nại phải là người có năng lực hành vi đầy đủ theo quy định của pháp luật; trong trường hợp thông qua người đại diện để thực hiện việc khiếu nại thì người đại diện phải theo quy định tại Điều 2 của Nghị định này.
3. Người khiếu nại phải làm đơn khiếu nại và gửi đến đúng cơ quan có thẩm quyền giải quyết trong thời hiệu, thời hạn theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo.
4. Việc khiếu nại chưa có quyết định giải quyết cuối cùng.
5. Việc khiếu nại chưa được toà án thụ lý để giải quyết.
1. Công dân tự mình hoặc thông qua người đại diện theo quy định pháp luật để thực hiện quyền khiếu nại; khi thực hiện việc khiếu nại, người đại diện phải có giấy tờ để chứng minh với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc đại diện hợp pháp của mình.
2. Cơ quan thực hiện quyền khiếu nại thông qua người đại diện là Thủ trưởng cơ quan đó. Thủ trưởng cơ quan có thể ủy quyền cho người đại diện theo quy định của pháp luật để thực hiện quyền khiếu nại.
3. Tổ chức thực hiện quyền khiếu nại thông qua người đại diện là người đứng đầu tổ chức đó được quy định trong quyết định thành lập tổ chức hoặc trong Điều lệ của tổ chức. Người đứng đầu tổ chức có thể uỷ quyền cho người đại diện theo quy định của pháp luật để thực hiện quyền khiếu nại.
Điều 5. Cơ quan nhà nước khi nhận được đơn khiếu nại thì xử lý như sau:
1. Đối với đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết và có đủ các điều kiện quy định tại Điều 1 của Nghị định này thì phải thụ lý để giải quyết; trong trường hợp đơn khiếu nại có chữ ký của nhiều người thì có trách nhiệm hướng dẫn người khiếu nại viết thành đơn riêng để thực hiện việc khiếu nại.
2. Đối với đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết nhưng không đủ các điều kiện để thụ lý giải quyết theo quy định tại Điều 1 của Nghị định này thì có văn bản trả lời cho người khiếu nại biết rõ lý do không thụ lý.
3. Đối với đơn vừa có nội dung khiếu nại, vừa có nội dung tố cáo thì cơ quan nhận được có trách nhiệm xử lý nội dung khiếu nại theo quy định tại khoản 1, khoản 2 và khoản 5 Điều này, còn nội dung tố cáo thì xử lý theo quy định tại Điều 42 của Nghị định này.
4. Đối với đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp dưới nhưng quá thời hạn quy định mà chưa được giải quyết thì Thủ trưởng cơ quan nhà nước cấp trên yêu cầu cấp dưới giải quyết, đồng thời có trách nhiệm chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc việc giải quyết của cấp dưới và áp dụng biện pháp theo thẩm quyền để xử lý đối với người thiếu trách nhiệm hoặc cố tình trì hoãn việc giải quyết khiếu nại đó. Trong trường hợp cần áp dụng biện pháp vượt quá thẩm quyền của mình thì kiến nghị cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền để xử lý.
5. Đối với đơn khiếu nại không thuộc thẩm quyền giải quyết, đơn khiếu nại về vụ việc đã có quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng thì cơ quan nhận được đơn không có trách nhiệm thụ lý nhưng có văn bản chỉ dẫn, trả lời người khiếu nại. Việc chỉ dẫn, trả lời chỉ thực hiện một lần đối với một vụ việc khiếu nại; trong trường hợp người khiếu nại gửi kèm các giấy tờ, tài liệu là bản gốc liên quan đến vụ việc khiếu nại thì cơ quan nhận được trả lại các giấy tờ, tài liệu đó cho người khiếu nại.
MỤC 2: TRÁCH NHIỆM CỦA THỦ TRƯỞNG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI
1. Trong quá trình giải quyết khiếu nại, người giải quyết khiếu nại lần đầu phải gặp gỡ, đối thoại trực tiếp với người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền, lợi ích liên quan để làm rõ nội dung khiếu nại, yêu cầu của người khiếu nại và hướng giải quyết khiếu nại; việc gặp gỡ, đối thoại phải tiến hành công khai, dân chủ; nếu thấy cần thiết có thể mời đại diện tổ chức chính trị - xã hội tham dự.
Đối với giải quyết khiếu nại các lần tiếp theo, việc gặp gỡ, đối thoại trực tiếp chỉ thực hiện khi thấy cần thiết. Trong trường hợp khiếu nại là vụ việc phức tạp, đông người, gay gắt, kéo dài thì người giải quyết khiếu nại các lần tiếp theo phải gặp gỡ, đối thoại trực tiếp với người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền và lợi ích liên quan. Việc gặp gỡ, đối thoại được tiến hành như lần đầu.
Người khiếu nại được uỷ quyền cho người đại diện của mình tham gia việc gặp gỡ, đối thoại.
2. Người giải quyết khiếu nại có trách nhiệm thông báo bằng văn bản với người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền, lợi ích liên quan, đại diện tổ chức chính trị - xã hội biết thời gian, địa điểm, nội dung việc gặp gỡ, đối thoại; người được thông báo có trách nhiệm đến đúng thời gian, địa điểm, thành phần như trong thông báo.
3. Khi gặp gỡ, đối thoại, người giải quyết khiếu nại phải nêu rõ nội dung cần đối thoại, kết quả việc xác minh nội dung vụ việc khiếu nại; người tham gia đối thoại có quyền phát biểu ý kiến, đưa ra những bằng chứng có liên quan đến vụ việc khiếu nại và yêu cầu của mình.
4. Việc gặp gỡ, đối thoại phải được lập thành biên bản; biên bản phải ghi rõ ý kiến của những người tham gia, tóm tắt kết quả về các nội dung đã đối thoại, có chữ ký của người tham gia; trường hợp người tham gia đối thoại không ký xác nhận thì phải ghi rõ lý do; biên bản này được lưu vào hồ sơ vụ việc khiếu nại.
5. Kết quả việc gặp gỡ, đối thoại là một trong các căn cứ làm cơ sở cho việc giải quyết khiếu nại.
1. Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền theo trình tự, thủ tục quy định tại Luật Khiếu nại, tố cáo và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo.
2. Căn cứ quy định của pháp luật, kết quả gặp gỡ, đối thoại, kết quả thẩm tra xác minh, kết luận và kiến nghị việc giải quyết khiếu nại, Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã ban hành quyết định giải quyết khiếu nại trong thời hạn quy định tại Luật Khiếu nại, tố cáo.
3. Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm gửi quyết định giải quyết khiếu nại cho người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền, lợi ích liên quan và ủy ban nhân dân cấp huyện; khi cần thiết công bố công khai quyết định giải quyết khiếu nại.
4. Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm thi hành, tổ chức thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật trong phạm vi trách nhiệm của mình.
1. Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền theo trình tự thủ tục quy định tại Luật Khiếu nại, tố cáo và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo.
Chánh thanh tra cấp huyện có trách nhiệm xác minh, kết luận, kiến nghị việc giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện.
2. Căn cứ quy định của pháp luật, kết quả gặp gỡ, đối thoại, kết quả thẩm tra xác minh, kết luận và kiến nghị việc giải quyết khiếu nại của Chánh thanh tra cấp huyện, Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện ban hành quyết định giải quyết khiếu nại trong thời hạn quy định tại Luật Khiếu nại, tố cáo.
3. Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm gửi quyết định giải quyết khiếu nại cho người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền, lợi ích liên quan và ủy ban nhân dân cấp tỉnh; khi cần thiết công bố công khai quyết định giải quyết khiếu nại.
4. Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm thi hành, tổ chức thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật trong phạm vi trách nhiệm của mình; kiểm tra, đôn đốc cơ quan, đơn vị cấp dưới trong việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật.
1. Giám đốc Sở và cấp tương đương thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh (gọi chung là Giám đốc Sở) có trách nhiệm giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền theo trình tự, thủ tục quy định tại Luật Khiếu nại, tố cáo và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo.
Chánh thanh tra Sở có trách nhiệm xác minh, kết luận, kiến nghị việc giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền của Giám đốc Sở.
2. Căn cứ quy định của pháp luật, kết quả gặp gỡ, đối thoại, kết quả thẩm tra xác minh, kết luận và kiến nghị việc giải quyết khiếu nại của Chánh thanh tra Sở, Giám đốc Sở ban hành quyết định giải quyết trong thời hạn quy định tại Luật Khiếu nại, tố cáo.
3. Giám đốc Sở có trách nhiệm gửi quyết định giải quyết khiếu nại cho người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền, lợi ích liên quan và người có thẩm quyền giải quyết tiếp theo; khi cần thiết công bố công khai quyết định giải quyết khiếu nại.
4. Giám đốc Sở có trách nhiệm thi hành, tổ chức thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật trong phạm vi trách nhiệm của mình; kiểm tra, đôn đốc cơ quan, đơn vị cấp dưới trong việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật.
1. Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền theo trình tự, thủ tục quy định tại Luật Khiếu nại, tố cáo và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo.
Chánh thanh tra cấp tỉnh có trách nhiệm xác minh, kết luận, kiến nghị việc giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
2. Căn cứ vào quy định của pháp luật, kết quả gặp gỡ, đối thoại, kết quả thẩm tra xác minh, kết luận và kiến nghị việc giải quyết khiếu nại của Chánh thanh tra cấp tỉnh, Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành quyết định giải quyết khiếu nại theo thời hạn quy định tại Luật Khiếu nại, tố cáo.
Đối với những vụ việc phức tạp, trước khi ban hành quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng, Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải tham khảo ý kiến của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ về những nội dung có liên quan đến chức năng quản lý nhà nước của Bộ, ngành đó; khi tham khảo ý kiến phải nêu rõ nội dung vụ việc và những nội dung cần tham khảo ý kiến; Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ nhận được đề nghị tham khảo ý kiến có trách nhiệm trả lời trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị.
3. Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm gửi quyết định giải quyết khiếu nại cho người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền, lợi ích liên quan; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ có thẩm quyền giải quyết tiếp theo đối với vụ việc khiếu nại đó. Nếu là quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng thì gửi quyết định giải quyết khiếu nại đến Thủ tướng Chính phủ, Tổng thanh tra và Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực liên quan đến nội dung khiếu nại. Khi cần thiết công bố công khai quyết định giải quyết khiếu nại.
4. Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm thi hành, tổ chức thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật trong phạm vi trách nhiệm của mình; kiểm tra, đôn đốc cơ quan, đơn vị cấp dưới trong việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật.
1. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền theo trình tự, thủ tục quy định tại Luật Khiếu nại, tố cáo và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo.
Chánh thanh tra Bộ có trách nhiệm xác minh, kết luận, kiến nghị việc giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng.
2. Căn cứ vào quy định của pháp luật, kết quả gặp gỡ, đối thoại, kết quả thẩm tra xác minh, kết luận và kiến nghị việc giải quyết khiếu nại, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ ban hành quyết định giải quyết trong thời hạn quy định tại Luật Khiếu nại, tố cáo.
Đối với những vụ việc phức tạp thì trước khi ban hành quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ phải tham khảo ý kiến của Bộ, ngành, ủy ban nhân dân cấp tỉnh về những nội dung có liên quan đến chức năng quản lý nhà nước của Bộ, ngành, địa phương đó.
Khi tham khảo ý kiến phải nêu rõ nội dung vụ việc và những nội dung cần tham khảo ý kiến. Cơ quan nhận được đề nghị tham khảo ý kiến có trách nhiệm trả lời trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị.
3. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm gửi quyết định giải quyết khiếu nại cho người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền, lợi ích liên quan. Nếu là quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng thì gửi quyết định giải quyết khiếu nại đến Thủ tướng Chính phủ và Tổng thanh tra. Khi cần thiết công bố công khai quyết định giải quyết khiếu nại.
4. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm thi hành, tổ chức thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật trong phạm vi trách nhiệm của mình; kiểm tra, đôn đốc cơ quan, đơn vị thuộc thẩm quyền quản lý trong việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật.
Điều 15. Tổng thanh tra có thẩm quyền:
1. Giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền theo trình tự, thủ tục quy định tại Luật Khiếu nại, tố cáo và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo.
2. Giúp Thủ tướng Chính phủ theo dõi, đôn đốc các Bộ, cơ quan ngang Bộ giải quyết khiếu nại có liên quan tới nhiều địa phương, nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước.
3. Giúp Thủ tướng Chính phủ xem xét lại quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh; trong trường hợp phát hiện có vi phạm pháp luật gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức thì kiến nghị hoặc yêu cầu người đã ban hành quyết định xem xét lại. Nếu sau 30 ngày mà kiến nghị hoặc yêu cầu không được thực hiện thì báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
MỤC 3: VIỆC THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI
Điều 17. Quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật phải được cá nhân, cơ quan, tổ chức nghiêm chỉnh chấp hành; người đã ban hành quyết định giải quyết khiếu nại có trách nhiệm đôn đốc, kiểm tra, áp dụng các biện pháp cần thiết theo thẩm quyền hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cần thiết để quyết định giải quyết khiếu nại được thi hành nghiêm chỉnh. Trong trường hợp cần thiết, người đã ban hành quyết định giải quyết khiếu nại yêu cầu các cơ quan chức năng phối hợp để tổ chức thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật.
1. Ban hành quyết định hành chính để thay thế hoặc sửa đổi quyết định hành chính bị khiếu nại và tổ chức thực hiện quyết định đó, chấm dứt hành vi hành chính bị khiếu nại trong trường hợp nội dung khiếu nại là đúng; bồi thường thiệt hại, khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật.
2. Giải thích, yêu cầu người khiếu nại chấp hành nghiêm chỉnh quyết định giải quyết khiếu nại, nếu nội dung khiếu nại không đúng; trong trường hợp cần thiết yêu cầu các cơ quan chức năng thực hiện các biện pháp theo thẩm quyền để bảo đảm việc thi hành nghiêm chỉnh quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật.
MỤC 4: VIỆC XEM XÉT LẠI QUYẾT ĐỊNH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI CUỐI CÙNG CÓ VI PHẠM PHÁP LUẬT
1. Quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng phải được người khiếu nại, người bị khiếu nại, công dân, cơ quan, tổ chức có liên quan chấp hành nghiêm chỉnh. Quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng chỉ được xem xét lại khi phát hiện có một trong những căn cứ sau đây:
a) Phát hiện tình tiết mới làm thay đổi cơ bản nội dung của quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng;
b) Quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng không phù hợp với các tình tiết khách quan của nội dung vụ việc khiếu nại;
c) Có vi phạm nghiêm trọng về trình tự, thủ tục khi xác minh, kết luận và ban hành quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức;
d) Có sai lầm nghiêm trọng về việc áp dụng chính sách, pháp luật trong quá trình giải quyết khiếu nại, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức;
đ) Quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng ban hành không đúng thẩm quyền.
2. Người đã ban hành quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng có trách nhiệm cung cấp đầy đủ các thông tin, tài liệu, hồ sơ vụ việc khiếu nại khi người có thẩm quyền yêu cầu và phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của các thông tin, tài liệu, hồ sơ đã cung cấp.
3. Thời hiệu yêu cầu hoặc kiến nghị xem xét lại quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng có vi phạm pháp luật là 24 tháng kể từ ngày quyết định đó có hiệu lực thi hành, trừ trường hợp Thủ tướng Chính phủ yêu cầu xem xét lại quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng.
1. Khi phát hiện quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh có dấu hiệu vi phạm pháp luật thì Tổng thanh tra yêu cầu người đã ban hành quyết định giải quyết khiếu nại báo cáo bằng văn bản nội dung vụ việc và gửi bản sao hồ sơ vụ việc khiếu nại. Nếu cần thiết, Tổng thanh tra tổ chức kiểm tra việc giải quyết khiếu nại.
Trong trường hợp có một trong những căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 21 của Nghị định này thì Tổng thanh tra có văn bản kiến nghị Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ hoặc yêu cầu Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét lại việc giải quyết khiếu nại.
Văn bản của Tổng thanh tra kiến nghị hoặc yêu cầu xem xét lại quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng được gửi đến Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ có chức năng quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực liên quan đến nội dung khiếu nại, người khiếu nại, người bị khiếu nại.
2. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh khi nhận được văn bản kiến nghị hoặc yêu cầu của Tổng thanh tra có trách nhiệm xem xét lại vụ việc khiếu nại.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản kiến nghị hoặc yêu cầu, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải báo cáo Tổng thanh tra về việc thực hiện kiến nghị hoặc yêu cầu đó. Trong trường hợp kiến nghị hoặc yêu cầu không được thực hiện thì Tổng thanh tra báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
1. Khi phát hiện quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ, ngành có dấu hiệu vi phạm pháp luật thì Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ yêu cầu người đã ban hành quyết định giải quyết khiếu nại báo cáo bằng văn bản nội dung vụ việc và gửi bản sao hồ sơ vụ việc khiếu nại đó. Nếu cần thiết, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ tổ chức kiểm tra việc giải quyết khiếu nại.
Trong trường hợp có một trong những căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 21 của Nghị định này thì Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ có văn bản yêu cầu Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét lại việc giải quyết khiếu nại.
Văn bản yêu cầu xem xét lại việc giải quyết khiếu nại của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ được gửi đến Thủ tướng Chính phủ, Tổng thanh tra, người khiếu nại, người bị khiếu nại.
2. Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh khi nhận được văn bản yêu cầu của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ có trách nhiệm xem xét lại vụ việc khiếu nại.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu, Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải báo cáo Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ về việc thực hiện yêu cầu đó. Trong trường hợp yêu cầu không được thực hiện thì Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Trong trường hợp vẫn giữ nguyên quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng thì Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải báo cáo bằng văn bản với người đã yêu cầu hoặc kiến nghị về cơ sở pháp luật để giữ nguyên quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng và có văn bản trả lời người khiếu nại.
KHIẾU NẠI, GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI QUYẾT ĐỊNH KỶ LUẬT CÔNG CHỨC TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
MỤC 1: THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI QUYẾT ĐỊNH KỶ LUẬT
1. Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện, Giám đốc Sở có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật do mình ban hành.
2. Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền:
a) Giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật do mình ban hành;
b) Giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật mà Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện, Giám đốc Sở đã giải quyết lần đầu nhưng còn có khiếu nại. Quyết định giải quyết khiếu nại này là quyết định cuối cùng.
Điều 29. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ có thẩm quyền:
1. Giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật do mình ban hành.
2. Giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật mà Thủ trưởng cơ quan thuộc Bộ, thuộc cơ quan ngang Bộ, thuộc cơ quan thuộc Chính phủ đã giải quyết lần đầu nhưng còn có khiếu nại. Quyết định giải quyết khiếu nại này là quyết định cuối cùng.
Điều 30. Bộ trưởng Bộ Nội vụ có thẩm quyền:
1. Giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật do mình ban hành.
2. Giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật mà Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã giải quyết lần đầu nhưng còn có khiếu nại. Quyết định giải quyết khiếu nại này là quyết định cuối cùng.
MỤC 2: THỦ TỤC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI QUYẾT ĐỊNH KỶ LUẬT
MỤC 1: THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT TỐ CÁO
Tố cáo hành vi vi phạm quy định về nhiệm vụ, công vụ của người thuộc cơ quan nào thì người đứng đầu cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết.
Tố cáo hành vi vi phạm quy định về nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan nào thì người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp của cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết.
1. Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người do mình quản lý trực tiếp.
2. Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của Chủ tịch, Phó Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã, Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng, Trưởng ban, Phó Trưởng ban thuộc ủy ban nhân dân cấp huyện và những người khác do mình bổ nhiệm và quản lý trực tiếp.
3. Giám đốc Sở có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng thuộc Sở và những người khác do mình bổ nhiệm và quản lý trực tiếp.
4. Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của Chủ tịch, Phó Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện, Giám đốc, Phó Giám đốc Sở và những người khác do mình bổ nhiệm và quản lý trực tiếp.
5. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, đơn vị thuộc Bộ, thuộc cơ quan ngang Bộ, thuộc cơ quan thuộc Chính phủ và những người khác do mình bổ nhiệm và quản lý trực tiếp.
6. Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của Bộ trưởng, Thứ trưởng, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch, Phó Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh và những người khác do mình bổ nhiệm và quản lý trực tiếp.
1. Chánh thanh tra cấp huyện có thẩm quyền:
a) Xác minh, kết luận nội dung tố cáo, kiến nghị biện pháp xử lý tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện khi được giao;
b) Xem xét, kết luận nội dung tố cáo mà Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã đã giải quyết nhưng có vi phạm pháp luật; trong trường hợp kết luận việc giải quyết có vi phạm pháp luật thì kiến nghị người đã giải quyết xem xét, giải quyết lại.
2. Chánh thanh tra Sở có thẩm quyền:
a) Xác minh, kết luận nội dung tố cáo, kiến nghị biện pháp xử lý tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Giám đốc Sở khi được giao;
b) Xem xét, kết luận nội dung tố cáo mà Thủ trưởng cơ quan thuộc Sở đã giải quyết nhưng có vi phạm pháp luật; trong trường hợp kết luận việc giải quyết có vi phạm pháp luật thì kiến nghị người đã giải quyết xem xét, giải quyết lại.
3. Chánh thanh tra cấp tỉnh có thẩm quyền:
a) Xác minh, kết luận nội dung tố cáo, kiến nghị biện pháp xử lý tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh khi được giao;
b) Xem xét, kết luận nội dung tố cáo mà Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện, Giám đốc Sở đã giải quyết nhưng có vi phạm pháp luật; trong trường hợp kết luận việc giải quyết có vi phạm pháp luật thì kiến nghị người đã giải quyết xem xét, giải quyết lại.
4. Chánh thanh tra Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có thẩm quyền:
a) Xem xét, kết luận nội dung tố cáo, kiến nghị biện pháp xử lý tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ khi được giao;
b) Xem xét, kết luận nội dung tố cáo mà Thủ trưởng cơ quan thuộc Bộ, thuộc cơ quan ngang Bộ, thuộc cơ quan thuộc Chính phủ đã giải quyết nhưng có vi phạm pháp luật; trong trường hợp kết luận việc giải quyết có vi phạm pháp luật thì kiến nghị người đã giải quyết xem xét, giải quyết lại.
Điều 40. Tổng thanh tra có thẩm quyền:
1. Xác minh, kết luận nội dung tố cáo, kiến nghị biện pháp xử lý tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Thủ tướng Chính phủ khi được giao.
2. Xem xét, kết luận nội dung tố cáo mà Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã giải quyết nhưng có vi phạm pháp luật; trong trường hợp kết luận việc giải quyết có vi phạm pháp luật thì kiến nghị người đã giải quyết xem xét, giải quyết lại.
MỤC 2: THỦ TỤC GIẢI QUYẾT TỐ CÁO
1. Cơ quan nhà nước nhận được đơn tố cáo có trách nhiệm phân loại và xử lý như sau:
a) Nếu tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì phải thụ lý để giải quyết theo đúng trình tự, thủ tục quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo và Nghị định này;
b) Nếu tố cáo không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì chậm nhất trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được phải chuyển đơn tố cáo hoặc bản ghi lời tố cáo và các tài liệu, chứng cứ liên quan (nếu có) cho người có thẩm quyền giải quyết;
c) Không xem xét, giải quyết những tố cáo giấu tên, mạo tên, không rõ địa chỉ, không có chữ ký trực tiếp mà sao chụp chữ ký hoặc những tố cáo đã được cấp có thẩm quyền giải quyết nay tố cáo lại nhưng không có bằng chứng mới;
d) Nếu tố cáo hành vi phạm tội thì chuyển cho cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát xử lý theo quy định tại Điều 71 của Luật Khiếu nại, tố cáo.
2. Trong trường hợp hành vi bị tố cáo gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhà nước, của tập thể, tính mạng, tài sản của công dân thì cơ quan nhận được đơn phải báo ngay cho cơ quan chức năng để có biện pháp ngăn chặn.
3. Trong trường hợp Thủ trưởng cơ quan nhà nước các cấp, các ngành nhận được thông tin người tố cáo bị đe dọa, trù dập, trả thù thì phải có trách nhiệm chỉ đạo hoặc phối hợp với các cơ quan chức năng liên quan làm rõ, có biện pháp bảo vệ người tố cáo, ngăn chặn và đề nghị cấp có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật người có hành vi đe dọa, trù dập, trả thù người tố cáo.
Sau khi kết thúc việc xác minh, người được giao nhiệm vụ xác minh phải có văn bản kết luận về nội dung tố cáo và phải có những chứng cứ để chứng minh cho kết luận của mình.
1. Trong trường hợp người bị tố cáo không vi phạm pháp luật, không vi phạm các quy định về nhiệm vụ, công vụ thì phải có kết luận rõ và thông báo bằng văn bản cho người bị tố cáo, cơ quan quản lý người bị tố cáo biết, đồng thời xử lý hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý người cố tình tố cáo sai sự thật.
2. Trong trường hợp người bị tố cáo có vi phạm pháp luật, vi phạm các quy định về nhiệm vụ, công vụ phải xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính thì xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý, đồng thời áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật để quyết định, kiến nghị xử lý được chấp hành nghiêm chỉnh.
3. Trong trường hợp hành vi bị tố cáo có dấu hiệu tội phạm thì chuyển hồ sơ vụ việc cho cơ quan điều tra hoặc Viện Kiểm sát để giải quyết theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Thủ trưởng cơ quan nhà nước phải tổ chức và quản lý nơi tiếp công dân của cơ quan mình; ban hành nội quy tiếp công dân; bố trí nơi tiếp công dân tại địa điểm thuận tiện; bảo đảm các điều kiện vật chất cần thiết để công dân đến trình bày khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh.
Tại nơi tiếp công dân phải niêm yết lịch tiếp công dân và nội quy tiếp công dân. Lịch tiếp công dân phải được ghi cụ thể thời gian, chức vụ người tiếp công dân. Nội quy tiếp công dân phải ghi rõ trách nhiệm của người tiếp công dân, quyền và nghĩa vụ của người đến khiếu nại, tố cáo.
1. Thủ trưởng cơ quan nhà nước có trách nhiệm định kỳ tiếp công dân theo quy định tại Điều 76 của Luật Khiếu nại, tố cáo; lịch tiếp công dân phải được thông báo công khai cho công dân biết.
2. Ngoài việc tiếp công dân theo định kỳ, Thủ trưởng cơ quan nhà nước phải tiếp công dân khi có yêu cầu khẩn thiết.
3. Đối với những khiếu nại thuộc thẩm quyền mà vụ việc rõ ràng, cụ thể, có cơ sở giải quyết thì khi tiếp công dân, Thủ trưởng cơ quan nhà nước phải trả lời ngay cho công dân biết; nếu vụ việc phức tạp cần nghiên cứu, xem xét thì phải nói rõ thời hạn giải quyết, người cần liên hệ tiếp để biết kết quả giải quyết.
4. Việc tiếp công dân của Thủ trưởng cơ quan nhà nước phải được ghi chép vào sổ tiếp công dân và được lưu giữ tại nơi tiếp công dân.
Điều 53. Việc xử lý khiếu nại, tố cáo tại nơi tiếp công dân được tiến hành như sau:
1. Đối với đơn khiếu nại thì xử lý theo quy định tại Điều 5 của Nghị định này; trong trường hợp công dân đến khiếu nại trực tiếp mà vụ việc khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan mình thì người tiếp công dân hướng dẫn họ viết thành đơn hoặc ghi lại nội dung khiếu nại và yêu cầu công dân ký tên hoặc điểm chỉ; nếu vụ việc khiếu nại không thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan mình thì hướng dẫn công dân khiếu nại đến đúng cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
2. Đối với tố cáo thì người tiếp công dân phải tiếp nhận, phân loại và xử lý theo quy định tại các Điều 42, 43 và Điều 44 của Nghị định này.
Các cơ quan khác của Nhà nước căn cứ vào quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo, Nghị định này và tình hình khiếu nại, tố cáo liên quan đến ngành, lĩnh vực của mình quản lý để bố trí thời gian tiếp công dân.
1. Việc tổ chức tiếp công dân của Trung ương Đảng và Nhà nước tại trụ sở tiếp công dân ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh thực hiện Quy chế tổ chức tiếp công dân ban hành kèm theo Nghị định số 89/CP ngày 07 tháng 8 năm 1997 của Chính phủ.
2. Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh bố trí địa điểm chung để Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại diện tổ chức chính trị tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo; cử một công chức có chức vụ Phó Văn phòng hoặc cấp tương đương phụ trách nơi tiếp công dân để tổ chức thực hiện chế độ tiếp dân thường xuyên.
ủy ban nhân dân cấp xã, Công an tại các địa phương có trách nhiệm bảo vệ an toàn trụ sở tiếp công dân của các cơ quan trên địa bàn mình quản lý; trong trường hợp cần thiết thì áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền để xử lý đối với những người lợi dụng việc khiếu nại, tố cáo có hành vi vi phạm pháp luật tại nơi tiếp công dân.
Bộ trưởng Bộ Công an chỉ đạo lực lượng công an có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan nhà nước trong việc bảo vệ trật tự, an toàn cho các trụ sở tiếp công dân, xử lý đối với các đối tượng vi phạm pháp luật ở nơi tiếp công dân.
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
1. Soạn thảo để Chính phủ trình Quốc hội, ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành các văn bản pháp luật về khiếu nại, tố cáo; trình Chính phủ ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
2. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
3. Ban hành theo thẩm quyền các văn bản hướng dẫn các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, cơ quan Thanh tra Nhà nước các cấp, các ngành về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
4. Thanh tra, kiểm tra các cấp, các ngành trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
5. Thực hiện việc giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền.
6. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo.
7. Tổng hợp tình hình khiếu nại, tố cáo, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và báo cáo Chính phủ theo định kỳ hoặc đột xuất.
8. Tổng kết kinh nghiệm về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
1. Định kỳ 3 tháng một lần, chậm nhất là ngày 15 của tháng cuối quý, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương báo cáo Thủ tướng Chính phủ qua Tổng thanh tra về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc phạm vi quản lý của Bộ, ngành, địa phương mình.
2. Tổng thanh tra tổng hợp tình hình giải quyết khiếu nại, tố cáo trong phạm vi quản lý của Chính phủ và báo cáo định kỳ tại các phiên họp thường kỳ của Chính phủ vào tháng đầu mỗi quý hoặc báo cáo đột xuất khi Thủ tướng Chính phủ có yêu cầu; định kỳ thông báo đến ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
3. Trong trường hợp cần thiết, Tổng thanh tra đề nghị Thủ tướng Chính phủ triệu tập lãnh đạo các cơ quan ở Trung ương, địa phương họp đề xuất các biện pháp để Thủ tướng Chính phủ xem xét, chỉ đạo xử lý đối với các vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều địa phương.
Điều 62. Thanh tra Nhà nước các cấp, các ngành có trách nhiệm:
1. Hướng dẫn cơ quan, tổ chức, đơn vị cùng cấp trong việc tiếp công dân, xử lý đơn khiếu nại, tố cáo, giải quyết khiếu nại, tố cáo, thi hành quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo.
2. Kiểm tra, thanh tra trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp dưới của Thủ trưởng cùng cấp trong việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; trong trường hợp cần thiết, đề nghị Thủ trưởng cùng cấp triệu tập Thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp dưới họp để đề xuất biện pháp tổ chức chỉ đạo, xử lý đối với các vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp.
3. Khi phát hiện có vi phạm pháp luật về khiếu nại, tố cáo thì xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý.
4. Kiến nghị các biện pháp nhằm chấn chỉnh công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc phạm vi quản lý của Thủ trưởng cùng cấp.
5. Tổng hợp tình hình khiếu nại, tố cáo và việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc trách nhiệm của Thủ trưởng cùng cấp; thực hiện chế độ báo cáo hàng tháng theo quy định của Tổng thanh tra.
XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
1. Ra quyết định tạm đình chỉ thi hành quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo của Thủ trưởng cơ quan cấp dưới khi phát hiện việc giải quyết có vi phạm pháp luật.
2. Ra quyết định tạm đình chỉ công tác đối với công chức thuộc quyền quản lý cố tình cản trở hoặc không chấp hành quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo hoặc không chấp hành yêu cầu của các cơ quan Thanh tra Nhà nước, của cơ quan nhà nước cấp trên trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; áp dụng các biện pháp xử lý khác đối với người có một trong các hành vi quy định tại các Điều 96, 97 và Điều 100 của Luật Khiếu nại, tố cáo.
1. Khiển trách.
2. Cảnh cáo.
3. Hạ bậc lương.
4. Hạ ngạch.
5. Cách chức.
6. Buộc thôi việc.
1. Thủ trưởng cơ quan nhà nước nếu thiếu trách nhiệm, nhiều lần để xảy ra vi phạm pháp luật về khiếu nại, tố cáo trong cơ quan do mình quản lý thì bị xử lý kỷ luật; nếu gây hậu quả nghiêm trọng thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
2. Thủ trưởng cơ quan nhà nước nếu thiếu trách nhiệm, không áp dụng các biện pháp cần thiết để thực hiện quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo thì bị xử lý kỷ luật; nếu gây hậu quả nghiêm trọng thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Người tiếp công dân, người giải quyết khiếu nại, tố cáo có quyền lập biên bản, yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính đối với người có hành vi vi phạm pháp luật khiếu nại, tố cáo. Chủ tịch ủy ban nhân dân và cơ quan Công an địa phương căn cứ vào biên bản và yêu cầu của người tiếp công dân, người giải quyết khiếu nại, tố cáo phải xử lý theo thẩm quyền và thông báo kết quả xử lý cho người có yêu cầu trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.
Những quy định trước đây trái với Nghị định này đều bãi bỏ.
|
TM.
CHÍNH PHỦ |
THE
GOVERNMENT |
SOCIALIST
REPUBLIC OF VIET NAM |
No. 53/2005/ND-CP |
Hanoi, April 19, 2005 |
THE GOVERNMENT
Pursuant to the December 25,
2001 Law on Organization of the Government;
Pursuant to the December 2, 1998 Law on Complaints and Denunciations;
Pursuant to the June 15, 2004 Law Amending and Supplementing a Number of
Articles of the Law on Complaints and Denunciations
At the proposal of the General Inspector,
DECREES:
COMPLAINTS ABOUT ADMINISTRATIVE DECISIONS, ADMINISTRATIVE ACTS AND THE SETTLEMENT THEREOF
Section 1. COMPLAINTS AND HANDLING OF WRITTEN COMPLAINTS
...
...
...
1. Complainants must be persons having their legitimate rights and interests directly affected by the administrative decisions or administrative acts they complain about.
2. Complainants must be persons having full act capacity to law provisions; in cases where complaints are lodged via their representatives, the latter must comply with the provisions of Article 2 of this Decree.
3. Complainants must make and send their written complaints to the right competent agencies within the statute of limitations and time limits prescribed by the Law on Complaints and Denunciations.
4. Complaints have not yet been given final decisions.
5. Complaints have not yet been enrolled for settlement by courts.
2. Agencies exercise their right to complain through representatives being their heads. Heads of agencies may authorize their representatives according to provisions of law to exercise the right to complain.
3. Organizations exercise their right to complain through representatives being their heads, defined in their establishment decisions or charters. Heads of organizations may authorize their represen-tatives according to provisions of law to exercise the right to complain.
...
...
...
Article 5.- Upon receiving written complaints, state agencies shall handle them as follows:
1. For written complaints falling under their respective settling jurisdiction and fully meeting the conditions stated in Article 1 of this Decree, they must accept them for settlement; where a written complaint is signed by many persons, they shall have to guide complainants to make separate written complaints.
2. For written complaints falling under their respective settling jurisdiction but failing to fully meet the conditions for acceptance for settlement as provided for in Article 1 of this Decree, they shall send written replies to complainants clearly stating the reasons for non-acceptance thereof.
3. For petitions containing both complaints and denunciations, the agencies receiving them shall have to handle the complaining contents according to the provisions in Clauses 1, 2 and 5 of this Article and the denouncing contents according to the provisions of Article 42 of this Decree.
4. For written complaints falling under the settling jurisdiction of their subordinates but having not yet been settled even the prescribed time limit has already expired, the heads of the superior state agencies shall request their subordinates to settle them while directing, inspecting, urging the settlement by their subordinates and to apply measures according to their competence to handle persons who show irresponsibility for or deliberately delay the settlement of such complaints. In case of necessity to apply measures beyond their jurisdiction, they shall request competent state agencies or persons to handle them.
5. For written complaints which do not fall under their settling jurisdiction or written complaints about cases or matters already settled under final decisions, the receiving agencies shall not have to accept them but issue documents guiding and replying the complainants. The guidance and reply shall be given only once for a case of complaint; where complainants send together with their written complaints papers and documents being originals related to the case of complaint, the receiving agencies shall return such papers and documents to the complainants.
...
...
...
For subsequent settlements of complaints, face-to-face meetings and dialogues shall be carried out when they are deemed necessary. Where complaints involve complicated matters or cases, many people, severity and/or prolongation, subsequent settlers of such complaints must have face-to-face meetings and dialogues with complainants, complained persons and persons with relevant rights and interests. The meetings and dialogues shall be the same as the first-time ones.
Complainants may authorize their representatives to participate in such meetings and dialogues.
2. Complaint settlers shall have to notify in writing complainants, complained persons, persons with relevant rights and interests, representatives of socio-political organizations of the time, venues and contents of meetings and dialogues; the notified persons shall have to come to the places on time as notified.
3. At meetings or dialogues, complaint settlers must clearly state the contents of dialogue, the results of verification of the complaining contents; participants may state their opinions, present proofs related to the complaining cases or matters and their demands.
4. Meetings and dialogues must be recorded in writing; the written records must be clearly written with the opinions of participants, summarized results on the dialogued contents and signed by participants; where participants decline to sign for certification, the reasons therefor must be clearly written in the records which must be kept in the dossiers of the complaining cases or matters.
5. The results of meetings and dialogues shall serve a basis for settlement of complaints.
...
...
...
2. Basing themselves on provisions of law, results of meetings and dialogues, results of verification, conclusions and proposals on settlement of complaints, commune-level People’s Committee presidents shall issue decisions to settle complaints within the time limits prescribed by the Law on Complaints and Denunciations.
3. Commune-level People’s Committee presidents shall have to send complaint-settling decisions to complainants, complained persons, persons with relevant rights and interests and district-level People’s Committees; and, when necessary, to publicize such decisions.
4. Commune-level People’s Committee presidents shall have to execute, and organize the execution of, legally effective decisions on settlement of complaints within the scope of their respective responsibility.
District-level chief inspectors shall have to verify, make conclusions and propose the settlement of complaints falling under the competence of district-level People’s Committee presidents.
2. Basing themselves on provisions of law, results of meetings and dialogues, results of verification, conclusions and proposals on settlement of complaints of the district-level chief inspectors, district-level People’s Committee presidents shall issue decisions to settle complaints within the time limits prescribed in the Law on Complaints and Denunciations.
3. District-level People’s Committee presidents shall have to send complaint-settling decisions to complainants, complained persons, persons with relevant rights and interests and provincial-level People’s Committees; and, when necessary, to publicize such decisions.
...
...
...
Provincial/municipal Services’ chief inspectors shall have to make verifications, conclusions and proposals on settlement of complaints falling under the competence of Services’ directors.
2. Basing themselves on provisions of law, results of meetings and dialogues, results of verifications, conclusions and proposals on settlement of complaints of Services’ chief inspectors, provincial/municipal Services’ directors shall issue settling decisions within the time limits prescribed in the Law on Complaints and Denunciations.
3. Services’ directors shall have to send complaint-settling decisions to complainants, complained persons, persons with relevant rights and interests and the persons with competence to further settle them; and, when necessary, to publicize such decisions.
4. Services’ directors shall have to execute, organize the execution of, legally effective decisions on settlement of complaints within the scope of their responsibility; to inspect and urge their subordinate agencies and units in execution of legally effective decisions on settlement of complaints.
Provincial-level chief inspectors shall have to make verifications, conclusions and proposals on settlement of complaints falling under the competence of provincial-level People’s Committee presidents.
...
...
...
For complicated cases and matters, before issuing final decisions on settlement of complaints, provincial-level People’s Committee presidents must consult with the concerned ministries, ministerial-level agencies and/or Government-attached agencies on contents related to their respective state management functions; upon consultation, they must clearly state the contents of the cases or matters and contents which need to be consulted on; upon receiving the consultation requests, the consulted ministries, ministerial-level agencies and/or Government-attached agencies shall have to reply within 15 days as from the date of receiving the requests.
3. Provincial-level People’s Committee presidents shall have to send complaint-settling decisions to complainants, complained persons, persons with relevant rights and interests; ministers, heads of ministerial-level agencies who have competence to further settle such complaints. If they are final decisions on settlement of complaints, such decisions shall be sent to the Prime Minister, the Inspector General and ministers, heads of ministerial-level agencies performing the state management over branches, domains related to the complaining contents; and, when necessary, to publicize such decisions
4. Provincial-level People’s Committee presidents shall have to execute, organize the execution of, legally effective decisions on settlement of complaints within the scope of their responsibility; to inspect and urge their subordinate agencies and units in execution of legally effective decisions on settlement of complaints.
Chief inspectors of the ministries shall have to make verifications, conclusions, proposals on settlement of complaints falling under the ministers’ competence.
2. Basing themselves on provisions of law, results of meetings and dialogues, results of verifications, conclusions and proposals on settlement of complaints, the ministers, the heads of ministerial-level agencies and the heads of Government-attached agencies shall issue decisions on settlement of complaints within the time limits prescribed in the Law on Complaints and Denunciations.
For complicated cases or matters, before issuing final decisions on settlement of complaints, the ministers or the heads of ministerial-level agencies must consult with the concerned ministries, branches and/or provincial-level People’s Committees on contents related to the state management functions of such ministries, branches or localities.
Upon consultation, the contents of cases or matters and the contents, which need to be consulted on must be clearly stated. The agencies receiving the consultation requests shall have to reply within 15 days as from the date of receiving the requests.
...
...
...
4. The ministers, the heads of ministerial-level agencies and the heads of Government-attached agencies shall have to execute, organize the execution of, legally effective decisions on settlement of complaints within the scope of their respective responsibility; to inspect, urge agencies and units under their management in execution of legally effective decisions on settlement of complaints.
Article 15.- The General Inspector shall have the power:
1. To settle complaints falling under his/her competence according to the order and procedures prescribed in the Law on Complaints and Denunciations and the Law Amending and Supplementing a Number of Articles of the Law on Complaints and Denunciations.
2. To assist the Prime Minister in monitoring, urging the ministries and ministerial-level agencies in the settlement of complaints related to many localities and many domains of state management.
3. To assist the Prime Minister in re-considering final complaint-settling decisions of ministers, heads of ministerial-level agencies or provincial-level People’s Committee presidents; in cases of detecting law violations which cause damage to the interests of the State, the legitimate rights and interests of citizens, agencies and/or organizations, to propose or request the decision issuers to make reconsideration. If after 30 days the proposals or requests are not implemented, to report thereon to the Prime Minister for consideration and decision.
Section 3. EXECUTION OF COMPLAINT-SETTLING DECISIONS
...
...
...
2. Explain to, request complainants to strictly abide by the complaint-settling decisions, if the complaining contents are incorrect; in case of necessity, request functional agencies to apply measures according to competence to ensure the strict execution of legally effective complaint-settling decisions.
Section 4. RECONSIDERATION OF FINAL COMPLAINT-SETTLING DECISIONS IN VIOLATION OF LAW
a) New circumstances are detected, thus substantially changing the contents of the final decisions on settlement of complaints;
b) The final complaint-settling decisions fail to match the objective circumstances of the contents of the complaints;
c) Serious violations of the order and procedures are committed when making verifications, conclusions and issuing the final complaint-settling decisions, which cause harms to the interests of the State, the legitimate rights and interests of citizens, agencies and/or organizations;
...
...
...
e) The final complaint-settling decisions are issued ultra vires.
2. Persons who have issued final complaint-settling decisions shall have to fully supply information, documents and files on complaining cases or matters when so requested by competent authorities and must bear responsibility for the accuracy, truthfulness of the supplied information, documents and/or files.
3. The statute of limitations for requesting or proposing the review of final complaint-settling decisions which violate law shall be 24 hours as from the effective dates of such decisions, except for cases where the Prime Minister requests the review of final complaint-settling decisions.
In cases where there is one of the grounds defined in Clause 1, Article 21 of this Decree, the General Inspector shall propose in writing ministers or heads of ministerial-level agencies or request presidents of provincial-level People’s Committees to reconsider the settlement of complaints.
The General Inspector’s written proposals or requests for review of final complaint-settling decisions shall be addressed to the Prime Minister, the ministers or the heads of ministerial-level agencies with the function of state management over the branches or domains related to the complaining contents, the complainants and the complained persons.
2. The ministers, the heads of ministerial-level agencies and the presidents of provincial-level People’s Committees, when receiving the written proposals or requests of the General Inspector, shall have to review the complaining cases or matters.
...
...
...
In cases where there is one of the grounds defined in Clause 1, Article 21 of this Decree, the ministers or the heads of ministerial-level agencies shall request in writing provincial-level People’s Committee presidents to reconsider the settlement of complaints.
Written requests for reconsideration of the complaint settlement of ministers or heads of ministerial-level agencies shall be addressed to the Prime Minister, the General Inspector, the complainants and the complained persons.
2. Provincial-level People’s Committee presidents, when receiving the written requests of ministers or heads of ministerial-level agencies shall have to reconsider the complaint cases or matters.
Within 30 days after receiving the written requests, provincial-level People’s Committee presidents must report to the ministers or the heads of ministerial-level agencies on the realization of such requests. In cases where the requests are not materialized, the ministers or the heads of ministerial-level agencies shall report such to the Prime Minister for consideration and decision.
In case of retaining the final complaint-settling decisions, ministers, heads of ministerial-level agencies or provincial-level People’s Committee presidents must report in writing to the persons who have requested or propose on the legal grounds for retaining their final complaint-settling decisions and send written replies to the complainants.
...
...
...
Section 1. COMPETENCE TO SETTLE COMPLAINTS ABOUT DISCIPLINARY DECISIONS
2. Provincial-level People’s Committee presidents are competent:
a) To settle complaints about disciplinary decisions they have issued;
b) To settle complaints about disciplinary decisions which have been settled for the first time by district-level People’s Committee presidents or provincial/municipal Services’ directors but are further lodged. Their complaint-settling decisions shall be final.
...
...
...
2. To settle complaints about disciplinary decisions, which have been settled for the first time by heads of agencies under their ministries, ministerial-level agencies or Government-attached agencies but are further lodged. Their complaint-settling decisions shall be final.
Article 30.- The Minister of Home Affairs is competent:
1. To settle complaints about disciplinary decisions he/she has issued.
2. To settle complaints about disciplinary decisions, which have been settled for the first time by ministers, heads of ministerial-level agencies, heads of Government-attached agencies or provincial-level People’s Committee presidents but are further lodged. His/her complaint-settling decisions shall be final.
Section 2. PROCEDURES FOR SETTLING COMPLAINTS ABOUT DISCIPLINARY DECISIONS
...
...
...
DENUNCIATIONS AND SETTLEMENT THEREOF
Section 1. COMPETENCE TO SETTLE DENUNCIATIONS
Denunciations about acts of violating the regulations on tasks, public duties of persons managed by any agencies shall be settled by the heads of such agencies.
Denunciations about acts of violating the regulations on tasks, public duties of heads or deputy-heads of any agencies shall be settled by heads of immediate superior agencies of such agencies.
...
...
...
3. Provincial/municipal Services’ directors are competent to settle denunciations about law-breaking acts of section heads or deputy-heads under provincial/municipal Services and other persons they have appointed and directly managed.
4. Provincial-level People’s Committee presidents are competent to settle denunciations about law-breaking acts of presidents, vice-presidents of district-level People’s Committees, directors or deputy-directors of provincial/municipal Services and other persons they have appointed and directly managed.
5. The ministers, the heads of ministerial-level agencies, the heads of Government-attached agencies are competent to settle denunciations about law-breaking acts of heads or deputy-heads of agencies or units under the ministries, the ministerial-level agencies or under the Government-attached agencies and other persons they have appointed and directly managed.
6. The Prime Minister is competent to settle denunciations about law-breaking acts of ministers, vice-ministers, heads or deputy-heads of ministerial-level agencies, heads or deputy-heads of Government-attached agencies, presidents or vice-presidents of provincial-level People’s Committees and other persons he/she has appointed and directly managed.
1. District-level chief inspectors are competent:
a) To verify, conclude on denunciations, propose measures for handling denunciations which fall under the settling competence of the district-level People’s Committee presidents, when assigned to do so;
b) To examine, conclude on denunciations, which have been already settled by commune-level People’s Committee presidents but in violation of law; in case of concluding that the settlement has breached the law, to propose the persons who have settled them to consider and re-settle them.
2. Provincial/municipal Services’ chief inspectors are competent:
...
...
...
b) To examine, conclude on denunciations which have been already settled by heads of agencies under provincial/municipal Services but in violation of law; in case of concluding that the settlement has breached the law, to the persons who have settled them to consider and re-settle them.
3. Provincial-level chief inspectors are competent:
a) To verify, conclude on denunciations, propose measures for handling of denunciations which fall under the settling competence of provincial-level People’s Committee presidents when assigned to do so;
b) To examine, conclude on denunciations which have been already settled by district-level People’s Committee presidents or provincial/municipal Services’ directors, but in violation of law; in case of concluding that the settlement has breached the law, to propose the persons who have settled them to consider and re-settle them.
4. Chief inspectors of ministries, ministerial-level agencies and Government-attached agencies are competent:
a) To examine, conclude on denunciations, propose measures for handling of denunciations which fall under the settling competence of ministers, heads of ministerial-level agencies, or heads of Government-attached agencies, when assigned to do so;
b) To examine, conclude on denunciations which have been already settled by heads of agencies under ministries, ministerial-level agencies or Government-attached agencies but in violation of law; in case of concluding that the settlement has breached the law, to propose the persons who have settled them to consider and resettle them.
Article 40.- The General Inspector is competent:
1. To verify, conclude on denunciations, propose measures for handling of denunciations which fall under the settling competence of the Prime Minister, when assigned to do so.
...
...
...
Section 2. DENUNCIATION-SETTLING PROCEDURES
a) If denunciations fall under their settling competence, they must accept them for settlement according to the order and procedures prescribed by the Law on Complaints and Denunciations and this Decree;
b) If denunciations do not fall under their settling competence, within 10 days as from the date of receiving them, they must transfer the written denunciations or the minutes recording the verbal denunciations and relevant documents, material evidences (if any) to competent persons for settlement;
c) Not to consider, settle denunciations which are anonymous, made under others’ names, or without clear addresses or genuine signatures, or denunciations already settled by competent authorities but now re-made without new evidences;
d) If denunciations are about criminal acts, to transfer them to investigating agencies or procuracies for handling according to provisions in Article 71 of the Law on Complaints and Denunciations.
2. In cases where the denounced acts cause or threaten to cause serious damage to interests of the State, collectives, the lives and/or properties of citizens, the denunciation-receiving agencies shall have to immediately report thereon to the functional bodies for taking preventive measures.
...
...
...
Upon the completion of verifications, the persons tasked to conduct verifications must make written conclusions on the denouncing contents and their conclusions must be proved with evidences.
1. In cases where the denounced persons do not breach the law or regulations on tasks, public duties, they must make clear conclusions thereon and notify such in writing to the denounced persons and their managing agencies, and at the same time handle or propose the competent state bodies to handle the persons who have deliberately made untruthful denunciations.
2. In cases where the denounced persons have violated laws, violated regulations on tasks or public duties and must be disciplined or administratively sanctioned, they shall handle according to competence or propose competent state bodies to handle them, and at the same time apply law-prescribed measures to decide or propose that the handling be strictly observed.
...
...
...
Heads of state agencies must organize and manage the citizen reception in their agencies; promulgate rules on citizen reception; arrange the citizen reception at convenient places; ensure necessary material conditions for citizens to come and present their complaints, denunciations, proposals or reports.
The citizen reception places must be posted with citizen reception time- tables and rules. Citizen reception time-tables must show the time, the positions of the citizen receivers, the rights and obligations of persons who come to make complaints or denunciations.
2. Apart from periodical receptions of citizens, heads of state agencies must receive citizens at urgent requests.
...
...
...
4. The citizen reception by heads of state agencies must be recorded in citizen reception books to be kept at citizen reception places.
1. Written complaints shall be handled according to the provisions in Article 5 of this Decree; in cases where citizens come to directly make complaints which fall under the settling competence of their agencies, citizen receivers shall guide them to write down or record the complaining contents and request such citizens to sign or give finger prints; if the complaints do not fall under the settling competence of their agencies, they shall guide the complainants to go to the agencies competent to settle them.
2. For denunciations, the citizen receivers must receive, classify and handle them according to the provisions in Articles 42, 43 and 44 of this Decree.
Other state agencies shall base themselves on the provisions of the Law on Complaints and Denunciations, the Law Amending and Supplementing a Number of Articles of the Law on Complaints and Denunciations, this Decree and the situation of complaints and denunciations related to their branches, domains to arrange time for reception of citizens.
...
...
...
Commune-level People’s Committees, local police offices shall have to ensure safety for citizen reception offices of agencies in the localities under their management; in case of necessity, apply measures according to competence to handle persons who abuse complaints or denunciations to commit law-breaking acts at citizen reception places.
The Minister of Public Security shall direct the public security forces to coordinate with state agencies in ensuring order and safety for citizen reception offices and handling those who commit law-breaking acts at citizen reception places.
STATE MANAGEMENT OVER THE SETTLEMENT OF COMPLAINTS, DENUNCIATIONS
1. To draft legal documents on complaints and denunciations for the Government to submit them to the National Assembly or the National Assembly Standing Committee for promulgation; submit to the Government for promulgation documents guiding the implementation of legislation on complaints and denunciations.
2. To propagate and disseminate legislation on complaints, denunciations.
...
...
...
4. To inspect, examine all levels and branches in the observance of law provisions on complaints and denunciations.
5. To settle complaints and denunciations according to competence.
6. To train and foster public employees performing the work of citizen reception, complaint and denunciation settlement.
7. To sum up the situation on complaints and denunciations, the settlement of complaints and denunciations and periodically or extraordinarily report thereon to the Government.
8. To draw experience on complaint and denunciation settlement.
...
...
...
3. In case of necessity, the General Inspector shall propose the Prime Minister to summon leaders of central agencies and localities to meetings to discuss and propose measures for the Prime Minister to consider and direct the handling of complicated cases of complaint or denunciation related to many branches, many localities.
Article 62.- State inspectorates at all levels and of all branches have the responsibility:
1. To guide agencies, organizations and units of the same levels in reception of citizens, handling of written complaints and denunciations, settlement of complaints and denunciations, execution of decisions on settlement of complaints, decisions on handling of denunciations.
2 To examine and inspect the responsibilities of heads of subordinate agencies, organizations or units under the heads of the same levels in the reception of citizens, the settlement of complaints and denunciations; in case of necessity, propose the heads of the same levels to summon heads of subordinate agencies, organizations or units to meetings on measures to direct the settlement of, and handle complicated cases of complaints and denunciations.
3. Upon detection of violations of legislation on complaints and denunciations, to handle them according to competence or propose Competent Agencies to handle them.
4. To propose measures to rectify the work of settlement of complaints and denunciations falling within the management scope of the heads of the same levels.
5. To sum up the situation on complaints and denunciations and the settlement of complaints and denunciations falling within the responsibilities of the heads of the same levels; to observe the regime of monthly report as provided for by the General Inspector.
HANDLING OF VIOLATIONS OF LEGISLATION ON COMPLAINTS, DENUNCIATIONS
...
...
...
1. To issue decisions to suspend the execution of complaint-settling decisions or denunciation-handling decisions of heads of subordinate agencies upon detecting that the settlement breaches the law.
2. To issue decisions to suspend the work of public employees under their respective management who deliberately obstruct or decline to abide by the complaint-settling decisions or denunciation-handling decisions or refuse to obey to the requests of State inspectorate or superior state agencies in the settlement of complaints or denunciations; to apply other handling measures to persons who commit one of the acts defined in Articles 96, 97 and 100 of the Law on Complaints and Denunciations.
1. Reprimand.
2. Caution.
3. Salary degrading.
4. Demotion.
5. Removal from office.
...
...
...
2. If heads of state agencies show irresponsibility, failing to apply necessary measures for enforcement of complaint-settling decisions or denunciation-handling decisions, they shall be disciplined; if serious consequences are caused, they shall be examined for penal liability.
Persons who receive citizens, persons who settle complaints or denunciations may make records on, and request competent agencies to administratively sanction persons who commit acts of violating legislation on complaints and denunciations. Local People’s Committee presidents and police offices shall base themselves on the records and requests of citizen receivers or complaint or denunciation settlers to handle them according to competence and notify the handling results to requesters within 15 days as from the date of receiving such requests.
...
...
...
All previous regulations contrary to this Decree are hereby annulled.
The Minister of Defense and the Minister of Public Security shall base themselves on the provisions of this Decree, after consulting with the General Inspector, to guide in detail the settlement of complaints and denunciations in the army and the police.
ON
BEHALF OF THE GOVERNMENT
PRIME MINISTER
Phan Van Khai
;
Nghị định 53/2005/NĐ-CP Hướng dẫn Luật Khiếu nại, tố cáo và Luật Khiếu nại, tố cáo sửa đổi
Số hiệu: | 53/2005/NĐ-CP |
---|---|
Loại văn bản: | Nghị định |
Nơi ban hành: | Chính phủ |
Người ký: | Phan Văn Khải |
Ngày ban hành: | 19/04/2005 |
Ngày hiệu lực: | Đã biết |
Tình trạng: | Đã biết |
Văn bản đang xem
Nghị định 53/2005/NĐ-CP Hướng dẫn Luật Khiếu nại, tố cáo và Luật Khiếu nại, tố cáo sửa đổi
Chưa có Video