BỘ
TÀI CHÍNH |
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 69/2006/TT-BTC |
Hà Nội, ngày 02 tháng 08 năm 2006 |
Căn cứ Luật Đất đai ngày 26 tháng 11 năm 2003; Căn cứ Nghị
định số 77/2003/NĐ-CP ngày 1/7/2003 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài chính;
Căn cứ Nghị định số
181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai;
Căn cứ Nghị định số
197/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư khi nhà nước thu hồi đất;
Căn cứ Nghị định số
17/2006/NĐ-CP ngày 27/1/2006 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của
các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về
việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần;
Bộ Tài chính hướng dẫn sửa đổi,
bổ sung Thông tư số 116/2004/TT-BTC ngày 07 tháng 12 năm 2004 của Bộ Tài chính
hướng dẫn thực hiện Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của
Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (sau
đây gọi chung là Thông tư số 116/2004/TT-BTC) như sau:
1. Sửa đổi, bổ sung điểm 3.2 mục 3 Phần I như sau:
“3.2. Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất để sử dụng vào mục đích quy định tại khoản 1 Điều 1 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP có nghĩa vụ chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư vào Việt Nam được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất thì không phải chịu chi phí về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất đã chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư vào Việt Nam có thực hiện ứng trước tiền để chi trả bồi thường, hỗ trợ và tái định cư theo quy định tại Nghị định số 197/2004/NĐ-CP thì được trừ số tiền đã chi trả bồi thường về đất, hỗ trợ về đất vào tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phải nộp cho Nhà nước. Mức được trừ không vượt quá số tiền sử dụng đất và tiền thuê đất phải nộp theo quy định”.
2. Sửa đổi, bổ sung điểm 3.1 mục 3 Phần II như sau:
“3.1. Khoản 1 quy định giá đất để tính bồi thường là giá đất theo mục đích đang sử dụng của đất bị thu hồi được công nhận theo quy định của pháp luật tại thời điểm có quyết định thu hồi đất, đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh) công bố vào ngày 01 tháng 01 hàng năm theo quy định của Chính phủ. Không bồi thường theo giá đất sẽ được chuyển mục đích sử dụng đất sau khi thu hồi, không bồi thường theo giá đất do thực tế sử dụng đất không phù hợp với mục đích sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Sở Tài chính và các cơ quan chức năng ở địa phương áp dụng giá đất do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đã ban hành để tính bồi thường tại thời điểm có quyết định thu hồi đất. Trường hợp giá đất do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh công bố chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường thì báo cáo Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giá đất cụ thể để tính bồi thường cho phù hợp. Việc xác định giá đất được thực hiện theo phương pháp xác định giá đất quy định tại Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về phương pháp xác định giá và khung giá các loại đất và Thông tư số 114/2004/TT-BTC ngày 26/11/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 188/2004/NĐ-CP của Chính phủ”.
3. Sửa đổi, bổ sung mục 2 Phần IV như sau:
“2.1. Khi thực hiện hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm cho các hộ gia đình bằng việc giao đất tại vị trí có thể làm mặt bằng sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ phi nông nghiệp. Nếu đất giao có nguồn gốc là đất nông nghiệp thì giá đất thu tiền sử dụng đất được tính theo giá đất nông nghiệp tương ứng với loại, hạng đất nông nghiệp của thửa đất giao (nếu diện tích thửa đất giao gồm nhiều loại, hạng đất nông nghiệp khác nhau, thì lấy theo giá bình quân gia quyền của các loại, hạng đất nông nghiệp đó) cộng (+) với chi phí đã đầu tư hạ tầng thực tế trên đất tính bình quân cho một mét vuông (nếu có); trường hợp đất giao có nguồn gốc là đất phi nông nghiệp, thì giá đất thu tiền sử dụng đất được tính theo giá đất nông nghiệp tương ứng với loại, hạng đất nông nghiệp khu vực liền kề cộng (+) với chi phí đã đầu tư hạ tầng thực tế trên đất tính bình quân cho một mét vuông (nếu có). Nhưng mức giá đất tính thu tiền sử dụng đất tối đa không được vượt quá giá đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã quy định và công bố theo quy định của Chính phủ.
2.2. Trường hợp các dự án không có đất để thực hiện hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm cho các hộ gia đình bằng việc giao đất, thì việc hỗ trợ chuyển đổi nghề cho những thành viên còn trong độ tuổi lao động của các hộ gia đình bị thu hồi đất sản xuất nông nghiệp được thực hiện bằng hình thức hỗ trợ chi phí đào tạo chuyển đổi nghề tại các cơ sở dạy nghề ở địa phương. Mức hỗ trợ cụ thể chi phí đào tạo chuyển đổi nghề do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định cho phù hợp với thực tế tại địa phương.
Nếu ở địa phương chưa tổ chức được việc đào tạo chuyển đổi nghề và chủ dự án sử dụng đất thu hồi không thể tổ chức được việc đào tạo nghề hoặc người được hưởng hỗ trợ đào tạo nghề có nguyện vọng tự học chuyển đổi nghề thì thực hiện hỗ trợ bằng tiền; mức hỗ trợ bằng tiền cụ thể do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định phù hợp với mức chi phí học chuyển đổi nghề thực tế tại địa phương”.
4. Sửa đổi, bổ sung mục 3 và mục 4 Phần VII như sau:
“3. Trên cơ sở kinh phí bảo đảm cho cho việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư được trích không quá 2% tổng số kinh phí bồi thường, hỗ trợ của dự án; căn cứ vào điều kiện thực tế của địa phương Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định mức kinh phí cụ thể phục vụ cho việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho phù hợp với quy mô, tính chất, đặc điểm của từng loại dự án để áp dụng thống nhất trên địa bàn địa phương. Trường hợp tại địa phương có thành lập Hội đồng thẩm định phương án bồi thường hoặc Ban chỉ đạo cấp tỉnh để chỉ đạo công tác giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất, thì trên cơ sở nhiệm vụ công tác của Hội đồng thẩm định, của Ban chỉ đạo cấp tỉnh, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định cụ thể tỷ lệ phân chia mức kinh phí tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của dự án, để sử dụng cho Hội đồng bồi thường, Hội đồng thẩm định, Ban chỉ đạo công tác giải phóng mặt bằng của tỉnh cho phù hợp.
Tổ chức phát triển quỹ đất hoặc Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cấp huyện khi thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho nhiều dự án trên địa bàn, thì được phép điều hòa mức kinh phí được trích giữa các dự án để sử dụng cho việc tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho phù hợp với khối lượng công việc thực tế phải thực hiện đối với từng dự án; nhưng phải bảo đảm tổng số kinh phí tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của các dự án được giao thực hiện, không vượt quá tổng số kinh phí được trích theo quy định của các dự án đó.
4. Kinh phí phục vụ cho công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư được sử dụng để chi cho các công việc tổ chức thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của dự án theo nội dung và mức chi đã được hướng dẫn tại điểm 1 và điểm 2 Phần VII Thông tư số 116/2004/TT-BTC. Nghiêm cấm việc chi khống và chi trùng ở các dự án.
Tổ chức hoặc Hội đồng được giao thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, có trách nhiệm thực hiện việc báo cáo quyết toán về kinh phí tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư với Sở Tài chính để phê duyệt theo quy định hiện hành. Khi xét duyệt quyết toán đối với khoản kinh phí này, Sở Tài chính được phép xử lý cho chuyển tiếp số kinh phí sử dụng không hết cho các dự án tiếp theo; trường hợp tổ chức hoặc Hội đồng bồi thường không được giao thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với các dự án tiếp theo, thì xử lý nộp Ngân sách nhà nước”.
Thông tư này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày kể từ ngày đăng Công báo. Những quy định tại Thông tư số 116/2004/TT-BTC không sửa đổi, bổ sung tại Thông tư này vẫn có hiệu lực thi hành.
Trong quá trình thực hiện Thông tư nếu phát sinh vướng mắc, đề nghị Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phản ánh kịp thời cho Bộ Tài chính để nghiên cứu, giải quyết./.
|
KT.BỘ TRƯỞNG
|
THE
MINISTRY OF FINANCE |
SOCIALIST
REPUBLIC OF VIET NAM |
No: 69/2006/TT-BTC |
Hanoi, August 02, 2006 |
CIRCULAR
AMENDING AND SUPPLEMENTING THE FINANCE MINISTRY'S CIRCULAR NO. 116/2004/TT-BTC OF DECEMBER 7, 2004, WHICH GUIDES THE IMPLEMENTATION OF THE GOVERNMENT'S DECREE NO. 197/2004/ND-CP OF DECEMBER 3, 2004, ON COMPENSATION, SUPPORT AND RESETTLEMENT UPON LAND RECOVERY BY THE STATE
Pursuant to the November 26, 2003 Land Law;
Pursuant to the Government's Decree No. 77/2003/ND-CP of July 1, 2003, defining
the functions, tasks, powers and organizational structure of the Ministry of
Finance;
Pursuant to the Government's Decree No. 181/2004/ND-CP of October 29, 2004, on
the implementation of the Land Law;
Pursuant to the Government's Decree No. 197/2004/ND-CP of December 3, 2004, on
compensation, support and resettlement upon land recovery by the State;
Pursuant to the Government's Decree No. 17/2006/ND-CP of January 27, 2006,
amending and supplementing a number of articles of the Decrees guiding the
implementation of the Land Law and Decree No. 187/2004/ND-CP on transformation
of state companies into joint-stock companies,
The Ministry of Finance hereby guides amendments and supplements to the Finance
Ministry's Circular No. 116/2004/TT-BTC of December 7, 2004, guiding the
implementation of the Government's Decree No. 197/2004/ND-CP of December 3,
2004, on compensation, support and resettlement upon land recovery by the State
(hereinafter collectively referred to as Circular No. 116/2004/TT-BTC) as
follows:
1. To amend and supplement Point 3.2, Section 3 of Part I as follows:
"3.2. Organizations or individuals that are allotted or leased land by the State for use for the purposes specified in Clause 1, Article 1 of Decree No. 197/2004/ND-CP shall be obliged to pay expenses for compensation, support and resettlement. Foreign organizations and individuals and overseas Vietnamese that invest in Vietnam and are allotted land with collection of land use levies or leased land by the State shall not have to bear expenses for compensation, support and resettlement.
Organizations or individuals that are allotted land and pay land use levies or are leased land by the State and pay money for compensation, support or resettlement as well as foreign organizations and individuals and overseas Vietnamese that invest in Vietnam and advance money for compensation, support or resettlement according to the provisions of Decree No. 197/2004/ND-CP shall have the paid money amounts for land-related compensation or support subtracted from the land use levies or land rents payable to the State. The to be-subtracted amounts shall not exceed the payable land use levies and land rents according to regulations."
2. To amend and supplement Point 3.1, Section 3 of Part II as follows:
"3.1. Clause 1 provides that the land price for compensation calculation shall be the price of recovered land based on its recognized current use purpose as provided for by law at the time of issuance of land recovery decisions, which is publicized by provincial/municipal People's Committees (hereinafter collectively referred to as provincial-level People's Committees) on January 1 every year under the Government's regulations. Compensations shall be paid neither according to the price of land to be used for another purpose after being recovered nor according to the price of land which has in fact been used for purposes not provided for by law.
...
...
...
3. To amend and supplement Section 2 of Part IV as follows:
"2.1. When supports are provided to households for job change or creation in the form of allotment of land at locations which can be used as non-agricultural production or service provision grounds, if the allotted land is originally agricultural land, land prices used for calculation of payable land use levies shall be agricultural land prices corresponding to categories or grades of agricultural land of the allotted land plots (if the allotted land plot is composed of land areas of different agricultural land categories or grades, the weighted average price of such agricultural land categories or grades shall apply) plus (+) the actual expense for investment in infrastructure per square meter of land on average (if any); where the allotted land is originally non-agricultural land, land prices used for calculation of payable land use levies shall be agricultural land prices corresponding to categories or grades of adjacent agricultural land areas plus (+) the actual expense for investment in infrastructure per square meter of land on average (if any). The maximum land price used for calculation of payable land use levies shall not exceed the non-agricultural production and business land price set and publicized by provincial-level People's Committees under the Government's regulations.
2.2. Where land is unavailable for projects to provide supports in the form of land allotment to households for job change or creation, the job change supports for working-age members of households having agricultural land recovered shall cover expenses for job training at local job-training establishments. The specific levels of job-training supports shall be decided by presidents of provincial-level People's Committees to suit the local practical situation.
Where job training cannot be organized yet in localities and project owners using recovered land cannot organize job training or job-training support beneficiaries wish to learn other jobs by themselves, pecuniary supports shall be provided; specific pecuniary support levels shall be decided by presidents of provincial-level People's Committees to suit the actual levels of local job-training expenses."
4. To amend and supplement Sections 3 and 4 of Part VII as follows:
"3. Based on the compensation, support and resettlement fund, which represents at most 2% of a project's total fund for compensation and support, and on local practical conditions, provincial-level People's Committees shall decide on specific levels of compensation, support and resettlement fund to suit the scale, nature and characteristics of each kind of project for uniform application in their respective localities. Where councils for evaluation of compensation plans or provincial-level steering committees for ground clearance upon land recovery by the State are set up in localities, based on the tasks of such councils or committees, provincial-level People's Committees shall decide on appropriate specific apportionment of projects' compensation, support and resettlement funds to provincial compensation councils, evaluation councils or steering committees for ground clearance.
District-level land fund development organizations or compensation, support and resettlement councils, when undertaking compensation, support and resettlement for different projects in their respective localities, may regulate the projects' compensation, support and resettlement funds suitable to the actual work volumes to be performed for each project, ensuring that the total compensation, support and resettlement fund of projects assigned to them shall not exceed that which can be subtracted according to regulations.
4. Compensation, support and resettlement funds shall be used for organizing compensation, support and resettlement for projects according to the spending contents and levels guided at Points 1 and 2, Part VII of Circular No. 116/2004/TT-BTC. Undocumented advance payment or payment for same work items is strictly prohibited.
Organizations or councils assigned to undertake compensation, support and resettlement shall report on the finalization of compensation, support and resettlement funds to provincial/municipal Finance Services for approval according to current regulations. When approving the finalization of such funds, provincial/municipal Finance Services may transfer the unused fund amounts to subsequent projects; where compensation organizations or councils are not assigned to undertake compensation, support and resettlement for subsequent projects, the unused fund amounts shall be remitted into the state budget."
...
...
...
This Circular shall take effect 15 days after its publication in "CONG BAO." The provisions of Circular No. 116/2004/TT-BTC which are neither amended nor supplemented in this Circular remain effective.
In the course of implementation of the Circular, provincial/municipal People's Committees should promptly report arising problems to the Ministry of Finance for study and settlement.
;Thông tư 69/2006/TT-BTC sửa đổi Thông tư 116/2004/TT-BTC hướng dẫn thực hiện Nghị định 197/2004/NĐ-CP về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất do Bộ Tài chính ban hành
Số hiệu: | 69/2006/TT-BTC |
---|---|
Loại văn bản: | Thông tư |
Nơi ban hành: | Bộ Tài chính |
Người ký: | Đỗ Hoàng Anh Tuấn |
Ngày ban hành: | 02/08/2006 |
Ngày hiệu lực: | Đã biết |
Tình trạng: | Đã biết |
Văn bản đang xem
Thông tư 69/2006/TT-BTC sửa đổi Thông tư 116/2004/TT-BTC hướng dẫn thực hiện Nghị định 197/2004/NĐ-CP về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất do Bộ Tài chính ban hành
Chưa có Video