BỘ THƯƠNG MẠI |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 1001/TM-XNK |
Hà Nội, ngày 05 tháng 5 năm 2003 |
Kính gửi: Bộ Tài chính
Bộ Thương mại nhận được công văn số 3641 TC/TCT ngày 14/4/2003 của Bộ Tài chính về việc lấy ý kiến sửa đổi Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi. Về vấn đề này, Bộ Thương mại có ý kiến như sau:
1. Về nguyên tắc:
- Việc xác định một mặt hàng là trong nước đã sản xuất được cần dựa trên cơ sở là ý kiến của Bộ chuyên ngành của mặt hàng đó.
2. Về các danh mục cụ thể các ngành hàng:
2.1. Thiết bị điện:
- Mặt hàng bóng đèn mổ nên giữ mức thuế là 0%, trong trường hợp cần thiết có thể tách mã riêng để áp thuế cho phù hợp (47-50).
2.2. Trồng trọt và ngành công nghiệp chế biến:
- Đề nghị không nâng thuế nhập khẩu bột mì, vì đây là đầu vào ngành sản xuất thực phẩm và mức chênh lệch 10% giữa lúa mì như hiện nay là hợp lý để bảo hộ ngành sản xuất bột mỳ-một ngành không đòi hỏi công nghệ quá cao.
2.3. Dệt may:
- Đề nghị áp mức thuế 5% đối với mặt hàng chỉ ruột mèo bằng tơ.
2.4. Máy động lực và máy công nghiệp:
- Đề nghị Bộ Tài chính cân nhắc thêm về việc nâng cao thuế các mặt hàng máy động lực và máy nông nghiệp. Vì điều này ảnh hưởng trực tiếp tới sản xuất nông nghiệp. Cụ thể theo giải trình của Bộ Tài chính thì đối với một số loại động cơ thuộc các mã số 8408 1030, 84089041, 84089042, 84089049 thì nhà máy Diesel Sông Công mới sản xuất số lượng ít, do đó không đủ cơ sở để xem xét tăng thuế. Ngoài ra một số loại máy kéo (nêu ở mục từ 24-33) mới chỉ có dự án sản xuất nên đề nghị chưa nên xem xét tăng thuế ngay.
2.5. Điện tử:
- Đề nghị áp dụng đúng nguyên tắc thuế linh kiện thấp hơn thuế thành phẩm để hỗ trợ ngành lắp ráp trong nước. Tuy nhiên mức chênh lệch chỉ nêu ở mức 5% do trong tương lai Việt Nam cũng không có khả năng sản xuất linh kiện máy tính.
2.6. Dược phẩm:
- Đề nghị chỉ xem xét tăng thuế đối với các mặt hàng thuốc chữa bệnh trong nước đã sản xuất đáp ứng nhu cầu cả về chất lượng và số lượng. Với mức thuế như hiện nay, các loại thuốc có nguồn gốc ngoại nhập đã có mức giá cao hơn thuốc sản xuất trong nước.
2.7. Hoá chất:
- Đề nghị không tăng thuế phân bón vì điều này ảnh hưởng trực tiếp tới sản xuất nông nghiệp, Chính phủ đã có nhiều văn bản đề cập tới vấn đề giảm chi phí đầu vào cho sản xuất nông nghiệp, trong đó đã chỉ đạo giảm thuế nhập khẩu phân bón. Những biến động trong thời gian qua trên thị trường phân bón chỉ mang tính chất ngắn hạn do ảnh hưởng của cuộc chiến tranh Iraq.
2.8. Giấy:
- Đề nghị giữ nguyên thuế nhập khẩu bột giấy như hiện nay vì Công ty giấy Bãi bằng sản xuất bột giấy chỉ phục vụ nhu cầu bản thân, và một số dự án sản xuất bột giấy chỉ bắt đầu sản xuất từ năm 2005 và cũng chưa thể đánh giá được hiệu quả đáp ứng nhu cầu trong nước.
- Đối với mặt hàng giấy và Carton làn sóng (mục số 10, đề nghị không nâng thuế vì hiện tại trong nước không sản xuất loại giấy này (theo ý kiến của Tổng công ty Giấy Việt Nam). Đến khi các dự án sản xuất (nếu có) được triển khai thì mới xem xét tăng thuế.
2.9. Sữa:
- Bộ Thương mại đồng ý với kiến nghị của Bộ Tài chính về việc giảm thuế nhập khẩu bột sữa nguyên kem.
Xin gửi Bộ Tài chính để tổng hợp.
|
KT BỘ TRƯỞNG BỘ THƯƠNG MẠI |
Công văn số 1001/TM-XNK ngày 05/05/2003 của Bộ Thương mại về việc sửa đổi biểu thuế nhập khẩu ưu đãi
Số hiệu: | 1001/TM-XNK |
---|---|
Loại văn bản: | Công văn |
Nơi ban hành: | Bộ Thương mại |
Người ký: | Mai Văn Dâu |
Ngày ban hành: | 05/05/2003 |
Ngày hiệu lực: | Đã biết |
Tình trạng: | Đã biết |
Văn bản đang xem
Công văn số 1001/TM-XNK ngày 05/05/2003 của Bộ Thương mại về việc sửa đổi biểu thuế nhập khẩu ưu đãi
Chưa có Video