BỘ
KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ |
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 2547/BKHĐT-QLKTTW |
Hà Nội, ngày 18 tháng 4 năm 2022 |
Kính gửi: |
- Các Bộ: Tài chính; Tư pháp; Công
Thương; Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Y tế; Thông tin và Truyền thông;
Khoa học và Công nghệ; Lao động - Thương binh và Xã hội; Tài nguyên và Môi
trường; Giao thông vận tải; Giáo dục và Đào tạo; Thanh tra Chính phủ; Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam; |
Thực hiện nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số 99/NQ-CP ngày 30 tháng 8 năm 2021 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ nhiệm kỳ 2021-2026 thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2026, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã xây dựng dự thảo Tờ trình và Chương trình hành động của Chính phủ tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3 tháng 6 năm 2017 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư trân trọng đề nghị quý Cơ quan nghiên cứu, có ý kiến góp ý về dự thảo Tờ trình, Nghị quyết và Chương trình hành động của Chính phủ (gửi kèm) trong phạm vi ngành, lĩnh vực, địa bàn quản lý và gửi về Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, 68 Phan Đình Phùng, Ba Đình, Hà Nội; email: luyennt@mpi.gov.vn; ĐT: 08043455) trước ngày 05 tháng 05 năm 2022, để kịp hoàn thiện trình Chính phủ.
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của Quý cơ quan./.
|
KT.
BỘ TRƯỞNG |
BỘ KẾ HOẠCH VÀ
ĐẦU TƯ |
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: /TTr-BKHĐT |
Hà Nội, ngày tháng năm 2022 |
DỰ THẢO |
|
Kính gửi: Chính phủ
Thực hiện nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số 99/NQ-CP ngày 30 tháng 8 năm 2021 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ nhiệm kỳ 2021-2026 thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2026, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan liên quan, các địa phương và hiệp hội doanh nghiệp nghiên cứu, xây dựng Dự thảo Chương trình hành động của Chính phủ tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03 tháng 6 năm 2017 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (sau đây gọi tắt là Dự thảo Chương trình hành động).
Bộ Kế hoạch và Đầu tư xin báo cáo Thủ tướng Chính phủ về quá trình xây dựng và nội dung chính của Dự thảo Chương trình hành động như sau:
I. CĂN CỨ XÂY DỰNG DỰ THẢO CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐỘNG
1. Căn cứ pháp lý
- Nghị quyết số 16/2021/QH15 ngày 27 tháng 7 năm 2021 của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025.
- Nghị quyết số 31/2021/QH15 ngày 12 tháng 11 năm 2021 về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025.
- Nghị quyết số 99/NQ-CP ngày 30 tháng 08 năm 2021 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ nhiệm kỳ 2021-2026 thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2026.
- Nghị quyết số 01/2022/NQ-CP ngày 08 tháng 01 năm 2022 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2022.
2. Căn cứ thực tiễn
a) Kết quả thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 10) giai đoạn 2017-2021:
Sau khi Nghị quyết 10 được Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII thông qua, ngày 03/10/2017, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 98/NQ-CP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ năm khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong giai đoạn 2017-2021, các bộ, ngành, địa phương đã tích cực triển khai thực hiện các nhiệm vụ được giao[1] và mang lại nhiều kết quả quan trọng. Kinh tế vĩ mô duy trì ổn định, lạm phát kiểm soát, từ đó tạo lập môi trường kinh doanh ổn định, thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển. Hàng ngàn quy định không phù hợp được bãi bỏ, sửa đổi, đơn giản hóa; chất lượng môi trường đầu tư kinh doanh cải thiện đáng kể. Công tác xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế đã tập trung vào giải pháp cụ thể góp phần thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển. Cải cách hành chính được triển khai quyết liệt. Các bộ, ngành đã tích cực rà soát và kiến nghị Chính phủ ban hành, sửa đổi, bãi bỏ quy định liên quan đến điều kiện kinh doanh không cần thiết, bất hợp lý; số lượng ngành nghề kinh doanh có điều kiện giảm đáng kể. Nhiều thủ tục hành chính được cắt giảm hoặc đơn giản hóa, giảm số lượng cơ quan nhà nước cần tiếp xúc với doanh nghiệp, nhà đầu tư. Việc tổ chức gặp mặt, đối thoại với cộng đồng doanh nghiệp được duy trì. Đặc biệt, giai đoạn đại dịch Covid-19, người đứng đầu Chính phủ, đại diện các bộ, ngành, địa phương đã liên tục đối thoại để lắng nghe, tháo gỡ khó khăn cho cộng đồng doanh nghiệp,... Theo đó, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân, niềm tin của doanh nghiệp đối với môi trường kinh doanh, bộ máy quản lý nhà nước đã được cải thiện đáng kể.
Cũng trong giai đoạn này, phát triển kinh tế tư nhân cũng đạt những kết quả tích cực. Số lượng và quy mô kinh tế tư nhân đã tăng đáng kể[2]. Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh cải thiện, đặc biệt những doanh nghiệp tư nhân quy mô lớn, quản trị tốt[3]. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đẩy mạnh hoạt động đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học - công nghệ, liên kết, tham gia chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu. Kinh tế tư nhân đã có những đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội[4], tạo diện mạo, vị thế mới trên trường quốc tế[5]. Kinh tế tư nhân cũng đóng góp lớn trong thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, trao quyền cho phụ nữ và thực hiện các hoạt động an sinh, xã hội[6].
Tuy nhiên, số lượng doanh nghiệp tăng nhưng chưa đạt mục tiêu đề ra đến năm 2020[7], mật độ doanh nghiệp so với dân số thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực và thế giới; quy mô của các chủ thể kinh tế tư nhân chủ yếu là nhỏ, siêu nhỏ và phần lớn hoạt động phi chính thức. Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của phần lớn doanh nghiệp tư nhân thấp[8]; năng lực công nghệ không cao[9]; tham gia vào chuỗi giá trị của doanh nghiệp tư nhân khá yếu[10]. Khu vực kinh tế tư nhân chưa thực sự phát triển bền vững, sức chống chịu hạn chế, đặc biệt trong bối cảnh Covid-19 khi số lượng doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường tăng mạnh[11]. Ngành nghề hoạt động của doanh nghiệp tư nhân chưa thật sự đa dạng, chưa gắn liền với các ngành sản xuất, dịch vụ có nhiều giá trị gia tăng. Vai trò, đóng góp của kinh tế tư nhân cho phát triển kinh tế xã hội còn hạn chế, chưa phản ánh đúng tiềm năng. Đóng góp của kinh tế tư nhân vào GDP chưa đạt mục tiêu đề ra và phần lớn đóng góp đến từ khu vực hộ kinh doanh (khoảng 30%), đóng góp của khu vực doanh nghiệp tư nhân chưa đến 10%.
Mặc dù các cơ chế, chính sách về phát triển kinh tế tư nhân liên tục được sửa đổi, hoàn thiện, góp phần tạo lập môi trường kinh doanh thông thoáng, thuận lợi hơn cho kinh tế tư nhân phát triển nhưng vẫn còn khá nhiều vấn đề đặt ra, từ nội dung cơ chế, chính sách đến tổ chức thực hiện. Môi trường đầu tư kinh doanh còn khá nhiều hạn chế, thiếu minh bạch, tiềm ẩn rủi ro, sự cải thiện không đồng đều. Chính sách pháp luật thiếu ổn định, khó dự báo làm cho doanh nghiệp bị động trong sản xuất kinh doanh, tác động đến tâm lý không muốn đầu tư dài hạn của doanh nghiệp. Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, chi phí tuân thủ cao, sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, cơ quan thiếu chặt chẽ, chưa hiệu quả. Tình trạng phân biệt đối xử vẫn còn khá phổ biến.
b) Những yêu cầu thực tiễn mới phát sinh:
Một là, diễn biến phức tạp và tác động nghiêm trọng của đại dịch Covid-19.
Từ năm 2020, dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp trên phạm vi toàn cầu với những biến thể mới xuất hiện liên tục. Ở trong nước, các đợt bùng phát dịch bệnh đã ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế nói chung và kinh tế tư nhân nói riêng. Hoạt động sản xuất kinh doanh bị đình trệ, đứt gãy, doanh nghiệp, người lao động gặp nhiều khó khăn, sức chống chịu bị bào mòn, đặc biệt khu vực kinh tế tư nhân khi năng lực nội tại hạn chế, tiềm lực tài chính chưa cao, sức cạnh tranh còn thấp, năng suất, chất lượng nhân lực chậm cải thiện,... Mặc dù, các chủ thể kinh tế tư nhân, cộng đồng doanh nghiệp đã chủ động thích ứng nhưng sức chống chịu ngày càng giảm sút, tình trạng rút lui khỏi thị trường khá nhiều, trong đó có cả những doanh nghiệp vừa và lớn. Điều này đòi hỏi cần tiếp tục có những cơ chế, chính sách phù hợp thúc đẩy kinh tế tư nhân phục hồi và phát triển.
Hai là, cạnh tranh địa chính trị, cạnh tranh thương mại và xu hướng bảo hộ.
Cạnh tranh địa chính trị, cạnh tranh thương mại giữa các nước lớn mang lại, chủ nghĩa bảo hộ sẽ tác động mạnh đến nền kinh tế nói chung, kinh tế tư nhân nói riêng. Với một nền kinh tế có độ mở lớn, hội nhập quốc tế sâu rộng đòi hỏi các chủ thể kinh tế tư nhân nâng cao năng lực, năng suất, chất lượng để nâng cao khả năng cạnh tranh. Theo đó, hệ thống cơ chế, chính sách cần đảm bảo thực chất nhằm tạo động lực, giảm bớt chi phí bất hợp lý cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động hiệu quả.
Ba là, những xu hướng phát triển mới.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, đặc biệt các thành tựu của Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhiều mô hình kinh tế mới đã xuất hiện như kinh tế số, kinh tế chia sẻ,... Để tồn tại, phát triển và nâng cao năng lực trong thời đại công nghệ đòi hỏi các chủ thể kinh tế tư nhân chủ động, tích cực trong ứng dụng công nghệ, đẩy mạnh chuyển đổi số bên cạnh những hỗ trợ về cơ chế, chính sách của Nhà nước.
Bên cạnh đó, với xu hướng phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, nâng cao trách nhiệm xã hội, môi trường,... đòi hỏi các chủ thể kinh tế tư nhân phải điều chỉnh hoạt động để nâng cao sức cạnh tranh, đáp ứng xu hướng mới. Theo đó, các cơ chế chính sách phải hướng tới điều chỉnh hành động của các chủ thể thị trường nói chung và kinh tế tư nhân nói riêng.
II. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG DỰ THẢO CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐỘNG
Thực hiện nhiệm vụ Chính phủ giao, trên cơ sở báo cáo hàng năm về tình hình thực hiện Nghị quyết số 98/NQ-CP ngày 03/10/2017 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/06/2017 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ năm khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và yêu cầu thực tiễn về phát triển kinh tế tư nhân trong giai đoạn đến năm 2025, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã dự thảo Chương trình hành động và gửi xin ý kiến các bộ, cơ quan liên quan, các địa phương và một số hiệp hội doanh nghiệp (Công văn số ....).
Tính đến ngày ...., Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã nhận được ý kiến góp ý bằng văn bản của …….. Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của các, cơ quan liên quan, địa phương và hiệp hội doanh nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã hoàn thiện dự thảo Chương trình hành động của Chính phủ tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
III. NỘI DUNG CHÍNH CỦA DỰ THẢO CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐỘNG
a) Mục tiêu tổng quát
Phát triển kinh tế tư nhân thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững, nâng cao tính tự chủ, tự cường của nền kinh tế.
b) Mục tiêu cụ thể
- Phấn đấu đến năm 2025 có khoảng 1,5 triệu doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó có khoảng 60.000 đến 70.000 doanh nghiệp quy mô vừa và lớn. Hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có tiềm lực, có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả kinh doanh trong khu vực kinh tế tư nhân. Tốc độ tăng trưởng của kinh tế tư nhân cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Phấn đấu tăng tỉ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP để đến năm 2025 đạt khoảng 55%.
- Cải thiện năng suất lao động, bình quân tăng 4-5%/ năm giai đoạn 2021-2025. Thu hẹp khoảng cách về trình độ công nghệ, chất lượng nhân lực và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân so với nhóm dẫn đầu ASEAN-4; nhiều doanh nghiệp tư nhân tham gia mạng sản xuất, chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.
- Việc xây dựng và ban hành Chương trình hành động nhằm quán triệt và chỉ đạo các cấp, các ngành tiếp tục tập trung tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm thực hiện thành công Nghị quyết của Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
- Chương trình hành động cụ thể hóa các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đề ra tại Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thành các chương trình, nhiệm vụ cụ thể, gắn với chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ và phù hợp với đặc điểm tình hình, điều kiện thực tế, đảm bảo tính thiết thực, hiệu quả, khả thi cao nhất; kế thừa, phát huy những kết quả đạt được và khắc phục những hạn chế, yếu kém trong tổ chức thực hiện ở giai đoạn trước; bổ sung đánh giá sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, trong đó chú trọng sự phát triển bền vững không chỉ số lượng mà cả chất lượng, trong xu hướng phát triển các ngành nghề mới liên quan đến kinh tế số, đổi mới sáng tạo.
- Chương trình hành động là căn cứ để các bộ, cơ quan trung ương và địa phương xây dựng kế hoạch, chương trình hành động, đồng thời tổ chức triển khai thực hiện nhằm góp phần thực hiện mục tiêu về phát triển kinh tế tư nhân.
- Đảm bảo tính đồng bộ, nhất quán trong triển khai thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế tư nhân. Thể hiện được vai trò kiến tạo, điều phối của Chính phủ, theo tinh thần đồng hành cùng doanh nghiệp, lấy doanh nghiệp làm đối tượng phục vụ. Xác định rõ nhiệm vụ của các cấp, các ngành; nêu cao trách nhiệm của người đứng đầu các bộ, cơ quan trung ương và địa phương trong tổ chức triển khai thực hiện.
a) Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách đồng bộ, nhất quán, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển kinh tế tư nhân.
- Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các cơ quan liên quan tiếp tục triển khai quyết liệt, thực hiện nghiêm túc theo chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền được giao:
+ Nghị quyết số 99/NQ-CP ngày 30 tháng 8 năm 2021 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ nhiệm kỳ 2021-2026 thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025;
+ Nghị quyết số /NQ-CP ngày tháng năm 2022 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 31/2021/QH15 ngày 12 tháng 11 năm 2021 về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025.
+ Nghị quyết số 02/NQ-CP của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia (hàng năm).
+ Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 12 tháng 5 năm 2020 của Chính phủ ban hành Chương trình cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh giai đoạn 2020-2025.
+ Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30 tháng 01 năm 2022 của Chính phủ về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan:
+ Tiếp tục rà soát, kiến nghị bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật không còn phù hợp, chồng chéo, chưa đầy đủ hoặc vướng mắc liên quan đến hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh, đất đai, tài chính,... để tháo gỡ điểm nghẽn phát triển kinh tế tư nhân, bảo đảm bảo thực hiện nghiêm minh quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản của các chủ thể kinh tế tư nhân.
+ Khuyến khích cơ chế phối hợp giữa các doanh nghiệp nhà nước với các doanh nghiệp tư nhân; đẩy mạnh triển khai các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia cụm liên kết chuỗi giá trị.
+ Nghiên cứu đề xuất khung pháp luật đối với hộ kinh doanh nhằm khuyến khích, tạo điều kiện cho hộ kinh doanh mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả hoạt động; báo cáo Chính phủ Quý II năm 2024.
+ Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư sản xuất lĩnh vực nông nghiệp; phát triển các dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp.
- Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan:
+ Tiếp tục kiểm soát chặt chẽ việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến đầu tư kinh doanh nói chung, quy định điều kiện kinh doanh nói riêng.
b) Tiếp tục mở rộng khả năng tham gia thị trường của kinh tế tư nhân và thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng.
- Bộ Công thương chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương liên quan:
+ Tổ chức triển khai hiệu quả Đề án Phát triển thị trường trong nước gắn với Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” giai đoạn 2021-2025 theo Quyết định số 386/QĐ-TTg ngày 17 tháng 3 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ.
+ Tiếp tục đẩy mạnh triển khai và đa dạng hóa hình thức các chương trình xúc tiến thương mại quốc gia, phát triển thị trường trong nước, xây dựng thương hiệu quốc gia, phát triển các sàn thương mại điện tử nhằm tăng cường tiêu thụ sản phẩm trong nước, mở rộng thị trường xuất khẩu.
+ Tiếp tục tăng cường công tác thông tin, tư vấn nâng cao hiểu biết sâu rộng, toàn diện cho cộng đồng doanh nghiệp và các chủ thể có liên quan để tận dụng hiệu quả cơ hội do các hiệp định thương mại tự do mang lại.
+ Tăng cường công tác phòng, chống gian lận thương mại, thao túng, chi phối thị trường, bóp méo giá cả, quan hệ cung - cầu hàng hóa, dịch vụ.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan theo dõi, đôn đốc thực hiện Kế hoạch sắp xếp, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2021-2025 nhằm tạo dư địa cho kinh tế tư nhân phát triển và thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng.
- Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan:
+ Tiếp tục thực hiện chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp, giảm tỷ lệ nắm vốn của Nhà nước trên cơ sở tiêu chí đã phân loại tại Quyết định số 22/2021/QĐ-TTg ngày 2 tháng 7 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ về tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước thực hiện chuyển đổi sở hữu, sắp xếp lại và thoái vốn giai đoạn 2021-2025. Định kỳ hàng quý báo cáo Chính phủ tại phiên họp thường kỳ.
+ Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các chính sách thuế, cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp và minh bạch thông tin tài chính, chế độ tài chính - kế toán nhằm đảm bảo khung pháp luật thống nhất, bình đẳng giữa các loại hình tổ chức kinh doanh.
- Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương triển khai thực hiện Đề án cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2021-2025 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kèm theo Quyết định số 360/QĐ-TTg ngày 17 tháng 3 năm 2022.
c) Tiếp tục phát triển kết cấu hạ tầng và tăng cường khả năng tiếp cận các nguồn lực của kinh tế tư nhân.
- Bộ Giao thông vận tải chủ trì, phối với các bộ, ngành liên quan tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế, chính sách khai thác, sử dụng hiệu quả tài sản kết cấu hạ tầng giao thông do Nhà nước đầu tư thông qua đấu thầu cho khu vực kinh tế tư nhân thuê quản lý, sử dụng và khai thác.
- Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan hoàn thiện pháp luật về đất đai, tài nguyên nhằm tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân tiếp cận đất đai, tài nguyên một cách minh bạch, bình đẳng theo cơ chế thị trường; sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan để bảo đảm quyền sử dụng đất thực sự là tài sản được chuyển nhượng, giao dịch, thế chấp cho các nghĩa vụ dân sự, kinh tế, để các tổ chức, cá nhân được thuê đất, giao đất lâu dài phù hợp với quy mô, phù hợp với nhu cầu sản xuất, kinh doanh.
- Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan thực hiện cơ cấu lại và phát triển an toàn, đồng bộ thị trường chứng khoán, thúc đẩy phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp và các thị trường chứng khoán phái sinh tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tư nhân huy động vốn trung và dài hạn trên thị trường chứng khoán.
- Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu, ban hành cơ chế, chính sách tín dụng phù hợp với các phương thức sản xuất kinh doanh, đối tượng khách hàng nhằm tăng cường kết nối các khâu trong mạng sản xuất và chuỗi giá trị.
- Các bộ, ngành, địa phương tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia thực hiện các hợp đồng mua sắm công theo quy định của pháp luật đấu thầu về ưu đãi cho các gói thầu quy mô nhỏ.
- Các bộ, ngành, địa phương phối hợp chặt chẽ với ngành ngân hàng trong triển khai chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp để cùng tháo gỡ khó khăn trong các lĩnh vực đất đai, cơ sở hạ tầng,... khi doanh nghiệp tiếp cận vốn vay để phát triển sản xuất kinh doanh.
- Các bộ, ngành, địa phương chủ động nghiên cứu, đề xuất cơ chế, chính sách thu hút đầu tư tư nhân theo phương thức đối tác công - tư với phương châm “lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư”.
d) Tiếp tục tập trung hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa công nghệ và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất.
- Bộ Khoa học và Công nghệ:
+ Nghiên cứu đề xuất các giải pháp, chính sách tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sử dụng hiệu quả Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia và Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong Quý I năm 2023.
+ Phối hợp với Bộ Tài chính đề xuất phương án sửa đổi, bổ sung các quy định tạo điều kiện cho doanh nghiệp sử dụng hiệu quả quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp để đầu tư nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ, đổi mới sáng tạo, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong quý I năm 2023.
+ Nghiên cứu đề xuất và triển khai hiệu quả chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ và các chương trình cấp quốc gia thuộc quản lý của Bộ Khoa học và Công nghệ.
+ Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, đẩy nhanh xử lý thủ tục hành chính đăng ký quyền sở hữu trí tuệ cho doanh nghiệp; triển khai các dịch vụ sở hữu trí tuệ để chuyển hóa quyền sở hữu trí tuệ của doanh nghiệp, tổ chức thành tài sản quan trọng.
+ Tiếp tục tổ chức triển khai có hiệu quả Chiến lược sở hữu trí tuệ đến năm 2030 (phê duyệt theo Quyết định số 1068/QĐ-TTg ngày 22 tháng 8 năm 2019 của Thủ tướng Chính phủ) và Chương trình phát triển tài sản trí tuệ đến năm 2030 (phê duyệt theo Quyết định số 2205/QĐ-TTg ngày 24 tháng 12 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ), gắn với việc rà soát, hoàn thiện và tổ chức thực thi hiệu quả các quy định về hỗ trợ khu vực tư nhân đổi mới sáng tạo.
+ Chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và các đơn vị liên quan đẩy mạnh xây dựng mạng lưới các trung tâm sở hữu trí tuệ (IP-hub) tại các trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp.
+ Thực hiện thông tin, nâng cao nhận thức, kỹ năng cho doanh nghiệp về các nội dung liên quan đến sở hữu trí tuệ, bao gồm đăng ký xác lập quyền sở hữu trí tuệ trong nước và nước ngoài, tham gia tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ ở trong nước và nước ngoài, cam kết trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới về sở hữu trí tuệ, kỹ năng bảo vệ, khai thác và phát triển các tài sản sở hữu trí tuệ.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
+ Chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Thông tin truyền thông và các bộ, cơ quan liên quan, các địa phương và hiệp hội đẩy mạnh triển khai chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.
+ Tiếp tục vận hành hiệu quả hoạt động của Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia; phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng chính sách và chương trình hỗ trợ nghiên cứu và phát triển, đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp.
- Bộ Thông tin và Truyền thông:
+ Chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan hoàn thiện và tổ chức triển khai Chiến lược quốc gia phát triển doanh nghiệp công nghệ số đến năm 2030; Chương trình phát triển công nghiệp công nghệ thông tin, điện tử viễn thông đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030; nghiên cứu giao hoặc đặt hàng các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam phát triển các giải pháp, nền tảng công nghệ số.
+ Triển khai Chương trình thương hiệu Việt cho sản phẩm công nghệ số Make in Việt Nam chinh phục người Việt Nam để nâng cao phạm vi ảnh hưởng và năng lực cạnh tranh của các thương hiệu công nghệ số quốc gia.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo:
+ Tiếp tục nghiên cứu xây dựng và thực hiện hiệu quả các chương trình và đào tạo tinh thần kinh doanh, khởi nghiệp sáng tạo cho học sinh, sinh viên; thúc đẩy liên kết giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp, doanh nhân, khuyến khích tinh thần kinh doanh của các thế hệ học sinh, sinh viên nhằm nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh, tinh thần khởi nghiệp sáng tạo.
+ Thực hiện đánh giá kết quả thực hiện Đề án “Hỗ trợ học sinh, sinh viên khởi nghiệp đến năm 2025” được phê duyệt theo Quyết định số 1665/QĐ-TTg ngày 30 tháng 10 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ.
+ Xây dựng và hoàn thiện chính sách đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao; đề xuất cơ chế, chính sách huy động và sử dụng hiệu quả mạng lưới tri thức người Việt trong nước và nước ngoài, hình thành nguồn nhân lực chất lượng cao ở nhiều cấp bậc.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan tiếp tục chỉ đạo các cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp đưa nội dung khởi nghiệp sáng tạo vào chương trình giảng dạy, thành lập các trung tâm khởi nghiệp sáng tạo tại các trường đại học và cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
- Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội:
+ Nghiên cứu đề xuất hoàn thiện cơ chế, chính sách về liên kết, hợp tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao giữa cơ sở giáo dục nghề nghiệp và doanh nghiệp; báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong Quý I năm 2023.
+ Đổi mới hệ thống giáo dục nghề nghiệp theo hướng tăng thực hành; rà soát, sửa đổi và bổ sung chương trình dạy nghề phù hợp với tình hình mới; cải thiện chất lượng đào tạo nghề và kỹ năng để đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động trong bối cảnh hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cung cấp thông tin và mở rộng chuyên môn hóa theo ngành nghề ở bậc trung học phổ thông để giúp định hướng nghề nghiệp sớm cho học sinh.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
+ Chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, hiệp hội doanh nghiệp, ngành hàng và địa phương tiếp tục đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, tư vấn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa; đào tạo, tư vấn khởi nghiệp, quản trị kinh doanh cho các đối tượng doanh nghiệp.
+ Tiếp tục phát triển hiệu quả hệ thống đào tạo trực tuyến e-learning dùng chung để cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng; nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua các khóa đào tạo trực tuyến và trực tiếp; thường xuyên cập nhật nội dung và chương trình học phù hợp với tình hình mới.
đ) Tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; thống nhất nhận thức, tư tưởng về phát triển kinh tế tư nhân
- Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các cơ quan liên quan:
+ Tiếp tục tuyên truyền, phổ biến quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết số 10-NQ/TW khóa XII nhằm quán triệt tinh thần Chính phủ đồng hành cùng doanh nghiệp, lấy doanh nghiệp làm trung tâm, là đối tượng phục vụ, tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh.
+ Tổ chức đối thoại công khai định kỳ ít nhất hai lần/ năm với cộng đồng doanh nghiệp, báo chí để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu tập trung, thống nhất, tích hợp về khu vực kinh tế tư nhân.
- Bộ Thông tin và Truyền thông, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh các chương trình truyền thông, nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân về đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh và đúng định hướng; đồng thời, khuyến khích các chủ thể kinh tế tư nhân nêu cao tinh thần dân tộc, ý thức tuân thủ pháp luật, đạo đức kinh doanh, thực hiện tốt trách nhiệm xã hội, cạnh tranh lành mạnh, nỗ lực liên kết hợp tác và đổi mới sáng tạo vì mục tiêu chung nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, thương hiệu quốc gia, làm giàu cho đất nước.
- Trên cơ sở nhiệm vụ trong Chương trình hành động, căn cứ và chức năng, nhiệm vụ được giao, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo xây dựng và ban hành kế hoạch thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ giai đoạn 2022-2025 và những năm tiếp theo; cụ thể hóa thành các nhiệm vụ hàng năm, trong đó phải thể hiện bằng các nhiệm vụ cụ thể và lộ trình triển khai thực hiện.
- Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tập trung chỉ đạo, tăng cường kiểm tra, đôn đốc việc triển khai thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ và của từng bộ, cơ quan, địa phương; định kỳ hàng năm báo cáo kết quả thực hiện với Thủ tướng Chính phủ, đồng gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư để theo dõi và tổng hợp theo quy định.
- Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan, địa phương theo dõi, đôn đốc việc triển khai thực hiện Chương trình hành động này, định kỳ báo cáo tình hình thực hiện, đánh giá chuyên sâu về năng lực của khu vực kinh tế tư nhân và kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các biện pháp cần thiết để bảo đảm thực hiện đồng bộ và có hiệu quả Chương trình hành động.
- Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ban Tuyên giáo Trung ương, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các bộ, cơ quan, địa phương làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền nhằm tạo đồng thuận xã hội trong phát triển kinh tế tư nhân nhằm đạt mục tiêu đề ra.
- Trong quá trình tổ chức thực hiện Nghị quyết này, nếu thấy cần sửa đổi, bổ sung những nội dung cụ thể thuộc Chương trình hành động, các bộ, cơ quan, địa phương chủ động đề xuất, gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư để tổng hợp và báo cáo Chính phủ xem xét, quyết định.
IV. TIẾP THU, GIẢI TRÌNH Ý KIẾN CỦA CÁC BỘ, NGÀNH, ĐỊA PHƯƠNG
………
………
Bộ Kế hoạch và Đầu tư kính trình Chính phủ xem xét, ban hành Chương trình hành động làm cơ sở để các bộ, cơ quan liên quan và các địa phương triển khai các nhiệm vụ, giải pháp nhằm tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa./.
|
BỘ
TRƯỞNG |
CHÍNH PHỦ |
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: /NQ-CP |
Hà Nội, ngày tháng năm 2022 |
DỰ THẢO |
|
CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 19 tháng 6 năm 2015, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 22 tháng 11 năm 2019;
Căn cứ Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03 tháng 6 năm 2017 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
Căn cứ Nghị quyết số 16/2021/QH15 ngày 27 tháng 7 năm 2021 của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025;
Căn cứ Nghị quyết số 31/2021/QH15 ngày 12 tháng 11 năm 2021 của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1: Ban hành kèm theo Nghị quyết này là Chương trình hành động của Chính phủ tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03 tháng 6 năm 2017 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Điều 2: Nghị quyết này có hiệu lực kể từ ngày ký ban hành.
Điều 3: Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Nghị quyết này./.
|
TM.
CHÍNH PHỦ |
CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐỘNG CỦA CHÍNH PHỦ
(Kèm theo Nghị quyết số /NQ-CP ngày tháng năm 2022 của Chính phủ)
Hội nghị Trung ương 5 khóa XII của Đảng đã thông qua Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03 tháng 6 năm 2017 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 10-NQ/TW khóa XII) về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu tổng quát là “Phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh, hiệu quả, bền vững, thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Căn cứ các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp tại Nghị quyết số 10-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 5 khóa XII, Nghị quyết số 16/2021/QH15 ngày 27 tháng 7 năm 2021 của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025, Nghị quyết số 31/2021/QH15 ngày 12 tháng 11 năm 2021 về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025, Nghị quyết số 31/2021/QH15 ngày 12 tháng 11 năm 2021 về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 và kết quả thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 5 khóa XII giai đoạn 2017-2021, Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03 tháng 6 năm 2017 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (Chương trình hành động) với những nội dung chính như sau:
1. Mục tiêu tổng quát
Phát triển kinh tế tư nhân thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững, nâng cao tính tự chủ, tự cường của nền kinh tế.
2. Mục tiêu cụ thể
- Phấn đấu đến năm 2025 có khoảng 1,5 triệu doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó có khoảng 60.000 đến 70.000 doanh nghiệp quy mô vừa và lớn. Hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có tiềm lực, có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả kinh doanh trong khu vực kinh tế tư nhân. Tốc độ tăng trưởng của kinh tế tư nhân cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Phấn đấu tăng tỉ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP để đến năm 2025 đạt khoảng 55%.
- Cải thiện năng suất lao động, bình quân tăng 4-5%/ năm giai đoạn 2021-2025. Thu hẹp khoảng cách về trình độ công nghệ, chất lượng nhân lực và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân so với nhóm dẫn đầu ASEAN-4; nhiều doanh nghiệp tư nhân tham gia mạng sản xuất, chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.
1. Việc xây dựng và ban hành Chương trình hành động nhằm quán triệt và chỉ đạo các cấp, các ngành tiếp tục tập trung tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm thực hiện thành công Nghị quyết của Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
2. Chương trình hành động cụ thể hóa các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đề ra tại Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thành các chương trình, nhiệm vụ cụ thể, gắn với chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ và phù hợp với đặc điểm tình hình, điều kiện thực tế, đảm bảo tính thiết thực, hiệu quả, khả thi cao nhất; kế thừa, phát huy những kết quả đạt được và khắc phục những hạn chế, yếu kém trong tổ chức thực hiện ở giai đoạn trước; bổ sung đánh giá sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, trong đó chú trọng sự phát triển bền vững không chỉ số lượng mà cả chất lượng, trong xu hướng phát triển các ngành nghề mới liên quan đến kinh tế số, đổi mới sáng tạo.
3. Chương trình hành động là căn cứ để các bộ, cơ quan trung ương và địa phương xây dựng kế hoạch, chương trình hành động, đồng thời tổ chức triển khai thực hiện nhằm góp phần thực hiện mục tiêu về phát triển kinh tế tư nhân.
4. Đảm bảo tính đồng bộ, nhất quán trong triển khai thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế tư nhân. Thể hiện được vai trò kiến tạo, điều phối của Chính phủ, theo tinh thần đồng hành cùng doanh nghiệp, lấy doanh nghiệp làm đối tượng phục vụ. Xác định rõ nhiệm vụ của các cấp, các ngành; nêu cao trách nhiệm của người đứng đầu các bộ, cơ quan trung ương và địa phương trong tổ chức triển khai thực hiện.
a) Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các cơ quan liên quan tiếp tục triển khai quyết liệt, thực hiện nghiêm túc theo chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền được giao:
- Nghị quyết số 99/NQ-CP ngày 30 tháng 8 năm 2021 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ nhiệm kỳ 2021-2026 thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025;
- Nghị quyết số /NQ-CP ngày tháng năm 2022 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 31/2021/QH15 ngày 12 tháng 11 năm 2021 về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025.
- Nghị quyết 02/NQ-CP của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia (hàng năm).
- Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 12 tháng 5 năm 2020 của Chính phủ ban hành Chương trình cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh giai đoạn 2020-2025.
- Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30 tháng 01 năm 2022 của Chính phủ về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình.
b) Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan:
- Tiếp tục rà soát, kiến nghị bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật không còn phù hợp, chồng chéo, chưa đầy đủ hoặc vướng mắc liên quan đến hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh, đất đai, tài chính,... để tháo gỡ điểm nghẽn phát triển kinh tế tư nhân, bảo đảm bảo thực hiện nghiêm minh quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản của các chủ thể kinh tế tư nhân.
- Khuyến khích cơ chế phối hợp giữa các doanh nghiệp nhà nước với các doanh nghiệp tư nhân; đẩy mạnh triển khai các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia cụm liên kết chuỗi giá trị.
- Nghiên cứu đề xuất khung pháp luật đối với hộ kinh doanh nhằm khuyến khích, tạo điều kiện cho hộ kinh doanh mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả hoạt động; báo cáo Chính phủ Quý II năm 2024.
- Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư sản xuất lĩnh vực nông nghiệp; phát triển các dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp.
d) Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan:
- Tiếp tục kiểm soát chặt chẽ việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến đầu tư kinh doanh nói chung, quy định điều kiện kinh doanh nói riêng.
a) Bộ Công thương chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương liên quan:
- Tổ chức triển khai hiệu quả Đề án Phát triển thị trường trong nước gắn với Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” giai đoạn 2021-2025 theo Quyết định số 386/QĐ-TTg ngày 17 tháng 3 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ.
- Tiếp tục đẩy mạnh triển khai và đa dạng hóa hình thức các chương trình xúc tiến thương mại quốc gia, phát triển thị trường trong nước, xây dựng thương hiệu quốc gia, phát triển các sàn thương mại điện tử nhằm tăng cường tiêu thụ sản phẩm trong nước, mở rộng thị trường xuất khẩu.
- Tiếp tục tăng cường công tác thông tin, tư vấn nâng cao hiểu biết sâu rộng, toàn diện cho cộng đồng doanh nghiệp và các chủ thể có liên quan để tận dụng hiệu quả các cơ hội của các hiệp định thương mại tự đã ký kết.
- Tăng cường công tác phòng, chống gian lận thương mại, thao túng, chi phối thị trường, bóp méo giá cả, quan hệ cung - cầu hàng hóa, dịch vụ.
b) Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan theo dõi, đôn đốc thực hiện Kế hoạch sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2021-2025 nhằm tạo dư địa cho kinh tế tư nhân phát triển và thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng.
c) Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan:
- Tiếp tục thực hiện chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp, giảm tỷ lệ nắm vốn của Nhà nước trên cơ sở tiêu chí đã phân loại tại Quyết định số 22/2021/QĐ-TTg ngày 2 tháng 7 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ về tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước thực hiện chuyển đổi sở hữu, sắp xếp lại và thoái vốn giai đoạn 2021-2025. Định kỳ hàng quý báo cáo Chính phủ tại phiên họp thường kỳ.
- Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các chính sách thuế, cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp và minh bạch thông tin tài chính, chế độ tài chính - kế toán nhằm đảm bảo khung pháp luật thống nhất, bình đẳng giữa các loại hình tổ chức kinh doanh.
d) Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương triển khai thực hiện Đề án cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2021-2025 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kèm theo Quyết định số 360/QĐ-TTg ngày 17 tháng 3 năm 2022.
a) Bộ Giao thông vận tải chủ trì, phối với các bộ, ngành liên quan tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế, chính sách khai thác, sử dụng hiệu quả tài sản kết cấu hạ tầng giao thông do Nhà nước đầu tư thông qua đấu thầu cho khu vực kinh tế tư nhân thuê quản lý, sử dụng và khai thác.
b) Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan hoàn thiện pháp luật về đất đai, tài nguyên nhằm tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân tiếp cận đất đai, tài nguyên một cách minh bạch, bình đẳng theo cơ chế thị trường; sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan để bảo đảm quyền sử dụng đất thực sự là tài sản được chuyển nhượng, giao dịch, thế chấp cho các nghĩa vụ dân sự, kinh tế, để các tổ chức, cá nhân được thuê đất, giao đất lâu dài phù hợp với quy mô, phù hợp với nhu cầu sản xuất, kinh doanh.
c) Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan thực hiện cơ cấu lại và phát triển an toàn, đồng bộ thị trường chứng khoán, thúc đẩy phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp và các thị trường chứng khoán phái sinh tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tư nhân huy động vốn trung và dài hạn trên thị trường chứng khoán.
d) Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu, ban hành cơ chế, chính sách tín dụng phù hợp với các phương thức sản xuất kinh doanh, đối tượng khách hàng nhằm tăng cường kết nối các khâu trong mạng sản xuất và chuỗi giá trị.
đ) Các bộ, ngành, địa phương tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia thực hiện các hợp đồng mua sắm công theo quy định của pháp luật đấu thầu về ưu đãi cho các gói thầu quy mô nhỏ.
e) Các bộ, ngành, địa phương phối hợp chặt chẽ với ngành ngân hàng trong triển khai chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp để cùng tháo gỡ khó khăn trong các lĩnh vực đất đai, cơ sở hạ tầng,... khi doanh nghiệp tiếp cận vốn vay để phát triển sản xuất kinh doanh.
g) Các địa phương chủ động phối hợp với các bộ, ngành liên quan nghiên cứu, đề xuất cơ chế, chính sách nhằm thu hút đầu tư tư nhân theo phương thức đối tác công - tư với phương châm “lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư”.
a) Bộ Khoa học và Công nghệ:
- Nghiên cứu đề xuất các giải pháp, chính sách tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sử dụng hiệu quả Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia và Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong Quý I năm 2023.
- Phối hợp với Bộ Tài chính đề xuất phương án sửa đổi, bổ sung các quy định tạo điều kiện cho doanh nghiệp sử dụng hiệu quả quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp để đầu tư nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ, đổi mới sáng tạo, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong quý I năm 2023.
- Nghiên cứu đề xuất và triển khai hiệu quả chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ và các chương trình cấp quốc gia thuộc quản lý của Bộ Khoa học và Công nghệ.
- Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, đẩy nhanh xử lý thủ tục hành chính đăng ký quyền sở hữu trí tuệ cho doanh nghiệp; triển khai các dịch vụ sở hữu trí tuệ để chuyển hóa quyền sở hữu trí tuệ của doanh nghiệp, tổ chức thành tài sản quan trọng.
- Tiếp tục tổ chức triển khai có hiệu quả Chiến lược sở hữu trí tuệ đến năm 2030 (phê duyệt theo Quyết định số 1068/QĐ-TTg ngày 22 tháng 8 năm 2019 của Thủ tướng Chính phủ) và Chương trình phát triển tài sản trí tuệ đến năm 2030 (phê duyệt theo Quyết định số 2205/QĐ-TTg ngày 24 tháng 12 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ), gắn với việc rà soát, hoàn thiện và tổ chức thực thi hiệu quả các quy định về hỗ trợ khu vực tư nhân đổi mới sáng tạo.
- Chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và các đơn vị liên quan đẩy mạnh xây dựng mạng lưới các trung tâm sở hữu trí tuệ (IP-hub) tại các trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp.
- Thực hiện thông tin, nâng cao nhận thức, kỹ năng cho doanh nghiệp về các nội dung liên quan đến sở hữu trí tuệ, bao gồm đăng ký xác lập quyền sở hữu trí tuệ trong nước và nước ngoài, tham gia tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ ở trong nước và nước ngoài, cam kết trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới về sở hữu trí tuệ, kỹ năng bảo vệ, khai thác và phát triển các tài sản sở hữu trí tuệ.
b) Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
- Chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Thông tin truyền thông và các bộ, cơ quan liên quan, các địa phương và hiệp hội đẩy mạnh triển khai chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.
- Tiếp tục vận hành hiệu quả hoạt động của Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia; phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng chính sách và chương trình hỗ trợ nghiên cứu và phát triển, đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp.
c) Bộ Thông tin và Truyền thông:
- Chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan hoàn thiện và tổ chức triển khai Chiến lược quốc gia phát triển doanh nghiệp công nghệ số đến năm 2030; Chương trình phát triển công nghiệp công nghệ thông tin, điện tử viễn thông đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030; nghiên cứu giao hoặc đặt hàng các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam phát triển các giải pháp, nền tảng công nghệ số.
- Triển khai Chương trình thương hiệu Việt cho sản phẩm công nghệ số Make in Việt Nam chinh phục người Việt Nam để nâng cao phạm vi ảnh hưởng và năng lực cạnh tranh của các thương hiệu công nghệ số quốc gia.
d) Bộ Giáo dục và Đào tạo:
- Tiếp tục nghiên cứu xây dựng và thực hiện hiệu quả các chương trình và đào tạo tinh thần kinh doanh, khởi nghiệp sáng tạo cho học sinh, sinh viên; thúc đẩy liên kết giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp, doanh nhân, khuyến khích tinh thần kinh doanh của các thế hệ học sinh, sinh viên nhằm nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh, tinh thần khởi nghiệp sáng tạo.
- Thực hiện đánh giá kết quả thực hiện Đề án “Hỗ trợ học sinh, sinh viên khởi nghiệp đến năm 2025” được phê duyệt theo Quyết định số 1665/QĐ-TTg ngày 30 tháng 10 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ.
- Xây dựng và hoàn thiện chính sách đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao; đề xuất cơ chế, chính sách huy động và sử dụng hiệu quả mạng lưới tri thức người Việt trong nước và nước ngoài, hình thành nguồn nhân lực chất lượng cao ở nhiều cấp bậc.
đ) Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan tiếp tục chỉ đạo các cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp đưa nội dung khởi nghiệp sáng tạo vào chương trình giảng dạy, thành lập các trung tâm khởi nghiệp sáng tạo tại các trường đại học và cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
e) Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội:
- Nghiên cứu đề xuất hoàn thiện cơ chế, chính sách về liên kết, hợp tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao giữa cơ sở giáo dục nghề nghiệp và doanh nghiệp; báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong Quý I năm 2023.
- Đổi mới hệ thống giáo dục nghề nghiệp theo hướng tăng thực hành; rà soát, sửa đổi và bổ sung chương trình dạy nghề phù hợp với tình hình mới; cải thiện chất lượng đào tạo nghề và kỹ năng để đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động trong bối cảnh hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cung cấp thông tin và mở rộng chuyên môn hóa theo ngành nghề ở bậc trung học phổ thông để giúp định hướng nghề nghiệp sớm cho học sinh.
g) Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
- Chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, hiệp hội doanh nghiệp, ngành hàng và địa phương tiếp tục đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, tư vấn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa; đào tạo, tư vấn khởi nghiệp, quản trị kinh doanh cho các đối tượng doanh nghiệp.
- Tiếp tục phát triển hiệu quả hệ thống đào tạo trực tuyến e-learning dùng chung để cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng; nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua các khóa đào tạo trực tuyến và trực tiếp; thường xuyên cập nhật nội dung và chương trình học phù hợp với tình hình mới.
a) Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các cơ quan liên quan:
- Tiếp tục tuyên truyền, phổ biến quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết số 10-NQ/TW khóa XII nhằm quán triệt tinh thần Chính phủ đồng hành cùng doanh nghiệp, lấy doanh nghiệp làm trung tâm, là đối tượng phục vụ, tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh.
- Tổ chức đối thoại công khai định kỳ ít nhất hai lần/ năm với cộng đồng doanh nghiệp, báo chí để kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp.
b) Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu tập trung, thống nhất, tích hợp về khu vực kinh tế tư nhân.
c) Bộ Thông tin và Truyền thông, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh các chương trình truyền thông, nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân về đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh và đúng định hướng; đồng thời, khuyến khích các chủ thể kinh tế tư nhân nêu cao tinh thần dân tộc, ý thức tuân thủ pháp luật, đạo đức kinh doanh, thực hiện tốt trách nhiệm xã hội, cạnh tranh lành mạnh, nỗ lực liên kết hợp tác và đổi mới sáng tạo vì mục tiêu chung nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, thương hiệu quốc gia, làm giàu cho đất nước.
1. Trên cơ sở nhiệm vụ trong Chương trình hành động, căn cứ và chức năng, nhiệm vụ được giao, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo xây dựng và ban hành kế hoạch thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ giai đoạn 2022-2025 và những năm tiếp theo; cụ thể hóa thành các nhiệm vụ hàng năm, trong đó phải thể hiện bằng các nhiệm vụ cụ thể và lộ trình triển khai thực hiện.
2. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tập trung chỉ đạo, tăng cường kiểm tra, đôn đốc việc triển khai thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ và của từng bộ, cơ quan, địa phương; định kỳ hàng năm báo cáo kết quả thực hiện với Thủ tướng Chính phủ, đồng gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư để theo dõi và tổng hợp theo quy định.
3. Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan, địa phương theo dõi, đôn đốc việc triển khai thực hiện Chương trình hành động này, định kỳ báo cáo tình hình thực hiện, đánh giá chuyên sâu về năng lực của khu vực kinh tế tư nhân và kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các biện pháp cần thiết để bảo đảm thực hiện đồng bộ và có hiệu quả Chương trình hành động.
4. Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ban Tuyên giáo Trung ương, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các bộ, cơ quan, địa phương làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền nhằm tạo đồng thuận xã hội trong phát triển kinh tế tư nhân nhằm đạt mục tiêu đề ra.
6. Trong quá trình tổ chức thực hiện Nghị quyết này, nếu thấy cần sửa đổi, bổ sung những nội dung cụ thể thuộc Chương trình hành động, các bộ, cơ quan, địa phương chủ động đề xuất, gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư để tổng hợp và báo cáo Chính phủ xem xét, quyết định./.
[1] Theo tổng hợp của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đến cuối năm 2021, đã có 38/40 nhiệm vụ cụ thể hoàn thành, đạt 95% tổng số nhiệm vụ được giao cụ thể (không tính 03 nhiệm vụ đã được Chính phủ đồng ý rút ra khỏi chương trình công tác theo đề nghị của cơ quan chủ trì).
[2] Giai đoạn 2017-2021, trung bình mỗi năm có gần 130 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, cao hơn gần 1,6 lần mức trung bình giai đoạn 2011-2016. Năm 2020 và 2021, mặc dù ảnh hưởng nghiêm trọng của đại dịch Covid-19 nhưng vẫn có tương ứng 134,9 nghìn và 116,8 nghìn doanh nghiệp thành lập mới.
Tốc độ tăng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân giai đoạn 2017-2019 đạt 20,85%/năm, cao hơn giai đoạn 2011-2016 (16,62%) và mức tăng chung của khu vực doanh nghiệp (16,29%). Tốc độ tăng tổng giá trị tài sản cố định và đầu tư dài hạn bình quân giai đoạn 2017-2019 đạt 12,87%/năm, cao hơn mức tăng chung toàn khu vực doanh nghiệp (6,38%/năm). Vốn đăng ký bình quân khi thành lập mới doanh nghiệp cũng tăng mạnh, từ hơn 10,24 tỷ đồng (năm 2017) lên 16,57 tỷ đồng (năm 2020) và 13,79 tỷ đồng (năm 2021). Đã xuất hiện nhiều doanh nghiệp tư nhân, tập đoàn tư nhân lớn, tiềm lực mạnh. Doanh nghiệp tư nhân đang dần chiếm vị thế áp đảo trong danh sách doanh nghiệp đạt vốn hóa tỷ USD trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
[3] Lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp tư nhân ghi nhận tăng liên tục với3 tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2017-2019 đạt 13,86%/năm. Các doanh nghiệp quy mô lớn, có bộ máy quản trị tốt ghi nhận hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh khá cao. Theo Bảng xếp hạng Profit 500 (Vietnam Report), ROA, ROE của doanh nghiệp tư nhân khá tốt (11,5% và 17,6% năm 2019; 9,8% và 20,8% năm 2020).
[4] Kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 40% GDP; đóng góp lớn vào vốn đầu tư toàn xã hội và tạo việc làm, thu nhập cho người lao động.
[5] Một số tập đoàn, doanh nghiệp tư nhân lớn đã đầu tư ra thị trường khu vực và quốc tế, hướng đến các đối tác phát triển góp phần khẳng định vị thế, năng lực của doanh nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế. Sự xuất hiện nhiều tỷ phú thế giới là doanh nhân Việt cũng góp phần khẳng định vị thế của Việt Nam trên bản đồ doanh nhân thế giới.
[6] Thể hiện rõ nhất là sự chung tay, đồng hành cùng Chính phủ, các cấp, các ngành trong phòng, chống dịch Covid-19 trong hơn hai năm qua
[7] Theo Nghị quyết số 10-NQ/TW, mục tiêu cụ thể đề ra là phấn đấu đến năm 2020 có ít nhất 1 triệu doanh nghiệp.
[8] Tỷ lệ doanh nghiệp ghi nhận lãi giảm giai đoạn 2017-2019 liên tục giảm. Năm 2016 là 47.0%; năm 2017 là 45,2%; năm 2018 là 43,7% và năm 2019 là 42,6%. Các chỉ số hiệu suất sinh lời đều thấp và thấp hơn so với khu vực DNNN và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
[9] Máy móc thiết bị lạc hậu so với khu vực khoảng 2-3 thập kỷ và đi sau khoảng 2-3 thế hệ công nghệ.
[10] Chỉ có 15-17% doanh nghiệp tư nhân là nhà cung ứng cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
[11] Tình trạng rút lui khỏi thị trường tăng mạnh, đặc biệt là tạm ngừng kinh doanh. Năm 2020, do tác động của dịch Covid-19, số lượng doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường là 101.719 doanh nghiệp, tăng 13,9% so với năm 2019. Trong 11 tháng đầu năm 2021, có đến 106.441 doanh nghiệp, tăng 13,9% so với cùng kỳ năm 2020.
Công văn 2547/BKHĐT-QLKTTW năm 2022 về xin ý kiến dự thảo Tờ trình, Nghị quyết và Chương trình hành động của Chính phủ tiếp tục thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân do Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành
Số hiệu: | 2547/BKHĐT-QLKTTW |
---|---|
Loại văn bản: | Công văn |
Nơi ban hành: | Bộ Kế hoạch và Đầu tư |
Người ký: | Trần Quốc Phương |
Ngày ban hành: | 18/04/2022 |
Ngày hiệu lực: | Đã biết |
Tình trạng: | Đã biết |
Văn bản đang xem
Công văn 2547/BKHĐT-QLKTTW năm 2022 về xin ý kiến dự thảo Tờ trình, Nghị quyết và Chương trình hành động của Chính phủ tiếp tục thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân do Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành
Chưa có Video