Bộ lọc tìm kiếm

Tải văn bản

Lưu trữ Góp ý

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • Tiếng anh
  • Lược đồ

BỘ Y TẾ
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 123/BYT-VPB1
V/v trả lời kiến nghị của cử tri tỉnh An Giang trước Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV

Hà Nội, ngày 07 tháng 01 năm 2025

 

Kính gửi: Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh An Giang

Bộ Y tế nhận được Công văn số 942/BDN ngày 06/11/2024 của Ban Dân nguyện - Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc đề nghị trả lời kiến nghị của cử tri gửi tới trước kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV, trong đó có một số kiến nghị của cử tri tỉnh An Giang.

Bộ Y tế xin trả lời đối với kiến nghị liên quan đến lĩnh vực quản lý của ngành Y tế, cụ thể như sau:

1. Cử tri theo dõi thông tin và cho biết theo công bố của Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) thì tính từ năm 2011, Việt Nam bắt đầu quá trình già hóa dân số với tỷ lệ những người từ 60 tuổi trở lên chiếm 11,9% tổng dân số. Dự kiến, vào năm 2036, Việt Nam sẽ bước vào giai đoạn dân số già với tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên chiếm 20% và tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên trên 14%; Điểm cơ bản tạo ra các thách thức đối với Việt Nam là nước ta chỉ có khoảng 20 năm để chuyển từ xã hội già hóa dân số sang xã hội dân số già, trong khi Pháp là 115 năm, Thụy Điển là 89 năm, Hoa Kỳ là 69 năm...Như vậy, trong khi các nước có hàng trăm năm hoặc hơn nửa thế kỷ để từng bước thay đổi chính sách, ứng phó với sự già hóa dần dân số, thì Việt Nam chỉ có khoảng 1/4 thế kỷ. Như vậy già hóa dân số nhanh sẽ tạo ra những thách thức và cơ hội đối với Việt Nam trong ngắn hạn và dài hạn; tạo ra các tác động đa chiều, đến nhiều lĩnh vực từ kinh tế đến an sinh xã hội và văn hóa... ảnh hưởng đến cơ cấu xã hội, cơ cấu kinh tế, trong đó trước mắt là cơ cấu lao động và tăng trưởng kinh tế. Cử tri đề nghị nghiên cứu, áp dụng những chủ trương, biện pháp nhằm giải quyết vấn đề già hóa dân số ở Việt Nam hiện nay.

Tuổi thọ tăng là một trong những thành tựu về phát triển kinh tế - xã hội nói chung và chăm sóc sức khỏe nói riêng. Tuy nhiên, già hóa dân số diễn ra với tốc độ nhanh đặt ra những thách thức rất lớn cho hệ thống an sinh xã hội, lao động việc làm, giao thông, vui chơi giải trí và hệ thống chăm sóc sức khỏe người cao tuổi ở nước ta.

Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến công tác dân số, đã ban hành nhiều chủ trương, đường lối, chính sách, chương trình, đề án về công tác dân số trong tình hình mới nhằm thích ứng với già hóa dân số, cụ thể như sau: (1) Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ sáu của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới; (2) Nghị quyết số 137/NQ-CP ngày 31/12/2017 về việc ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW; (3) Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 24/11/2023 của Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, nâng cao chính sách xã hội, đáp ứng sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới; (4) Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 09/5/2024 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 24/11/2023.

Để thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác dân số, đặc biệt để thích ứng với già hóa dân số, nhiều biện pháp đã và đang được triển khai như sau: (1) Ngày 13/10/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1579/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi đến năm 2030 với mục tiêu chăm sóc, nâng cao sức khỏe người cao tuổi (người từ đủ 60 tuổi trở lên) bảo đảm thích ứng với già hóa dân số, góp phần thực hiện thành công Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030; (2) Ngày 28/4/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 588/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình điều chỉnh mức sinh phù hợp các vùng, đối tượng đến năm 2030 góp phần thực hiện thành công Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030, đảm bảo phát triển nhanh, bền vững đất nước. Đây cũng là một trong những biện pháp giúp giảm tỷ lệ già hóa dân số, tăng cơ cấu lao động ở Việt Nam; (3) Thực hiện Quyết định số 588/QĐ-TTg ngày 28/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Y tế ban hành Kế hoạch hành động thực hiện Chương trình; hướng dẫn Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương triển khai Quyết định số 588/QĐ-TTg. Ngày 25/01/2021, Bộ Y tế ban hành Thông tư số 01/2021/TT-BYT ngày 25/01/2021 hướng dẫn một số nội dung để địa phương ban hành chính sách khen thưởng, hỗ trợ đối với tập thể, cá nhân thực hiện tốt công tác dân số; (4) Bộ Y tế đang tiến hành xây dựng Đề án xây dựng, phát triển nhân viên chăm sóc sức khỏe người cao tuổi tại cộng đồng và cơ sở chăm sóc sức khỏe người cao tuổi đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; (5) Bộ Y tế đang triển khai nghiên cứu, xây dựng khung chính sách tổng thể về dân số, bảo đảm tỉ suất sinh thay thế phù hợp với vùng, miền, đối tượng dân cư và số lượng, chất lượng dân số, dự kiến trình Quốc hội tháng 12/2024 và xây dựng Đề án sửa đổi, bổ sung Chương trình điều chỉnh mức sinh phù hợp các vùng, đối tượng đến năm 2030 bảo đảm vững chắc mức sinh thay thế của quốc gia, dự kiến trình Thủ tướng Chính phủ trong năm 2025.

Bộ Y tế đã đưa vào đề xuất xây dựng Luật Dân số “Chính sách thích ứng với già hóa dân số và dân số già” nhằm xây dựng các giải pháp góp phần thích ứng với già hóa dân số, dân số già. Giải quyết vấn đề già hóa dân số là vấn đề lớn của đất nước, cần có sự phối hợp, tham gia của các Bộ, ngành để đề xuất giải pháp cụ thể, phù hợp, hiệu quả. Đề nghị các Bộ, ngành trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao phối hợp với Bộ Y tế nghiên cứu, đề xuất các chính sách cụ thể.

2. Cử tri đề nghị thực hiện liên thông tuyến y tế các cấp, trong đó có cấp huyện đến cấp tỉnh, đồng thời người tham gia bảo hiểm y tế được khám chữa bệnh tại bất kỳ cơ sở y tế nào trên toàn quốc mà không bị giới hạn nơi đăng ký khám chữa bệnh ban đầu để việc khám chữa bệnh được thuận lợi.

Ngày 01/01/2025, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 01/2025/TT-BYT quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật bảo hiểm y tế, trong đó có (1) danh mục 62 bệnh hiếm, bệnh hiểm nghèo không cần giấy chuyển viện, người bệnh vẫn được hưởng 100% mức hưởng bảo hiểm y tế; (2) quy định đăng ký khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế ban đầu, quy định chuyển người bệnh về cơ sở khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế ban đầu.

3. Cử tri tiếp tục phản ánh tình trạng thiếu thuốc tại các cơ sở y tế công lập và phải mua thuốc từ bên ngoài dẫn đến tốn kém cho người bệnh và thân nhân, ảnh hưởng đến tâm lý của người dân trong việc tham gia bảo hiểm y tế. Cử tri đề nghị Bộ Y tế triển khai nhanh chóng, kịp thời các biện pháp nhằm giải quyết tình trạng thiếu thuốc kéo dài trong thời gian qua, đảm bảo quyền lợi của người bệnh nói chung và người tham gia bảo hiểm y tế nói riêng.

Thời gian qua, có thực trạng ở một số nơi, một số cơ sở khám bệnh, chữa bệnh gặp khó khăn, vướng mắc trong công tác đấu thầu thuốc gây nên tình trạng thiếu thuốc cần thiết để chỉ định sử dụng cho bệnh nhân. Ngoài các nguyên nhân khách quan như tác động của dịch bệnh, nguồn nguyên liệu sản xuất khan hiếm, việc nhập khẩu, cung ứng thuốc khó khăn, giá thuốc tăng cao so với trước nên các đơn vị cung ứng khó khăn và hạn chế hơn trong việc tham gia dự thầu ... còn có các nguyên nhân chủ quan như do cơ chế đấu thầu, vướng mắc của văn bản quy phạm pháp luật, chậm có kết quả đấu thầu tập trung Quốc gia và cấp địa phương, thiếu nhân lực thực hiện công tác đấu thầu,...

Để khắc phục tình trạng thiếu thuốc và vật tư y tế, thời gian qua, nhiều văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu đã được ban hành như Luật Đấu thầu và Nghị định số 23/2024/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án thuộc trường hợp phải tổ chức đấu thầu theo quy định của pháp luật quản lý ngành, lĩnh vực, Nghị định số 24/2024/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu đã góp phần giải quyết khó khăn trong vấn đề mua sắm đấu thầu nói chung cũng như mua sắm thuốc nói riêng.

Bộ Y tế đã xây dựng và ban hành các thông tư hướng dẫn, bổ sung trong công tác đấu thầu thuốc, thiết bị y tế như: (1) Thông tư số 03/2024/TT-BYT ngày 16/4/2024 ban hành danh mục thuốc có ít nhất 03 hãng trong nước sản xuất trên dây chuyền sản xuất thuốc đáp ứng nguyên tắc, tiêu chuẩn EU-GMP hoặc tương đương EU-GMP và đáp ứng tiêu chí kỹ thuật theo quy định của Bộ Y tế và về chất lượng, giá, khả năng cung cấp; (2) Thông tư số 04/2024/TT-BYT ngày 20/4/2024 quy định danh mục mua sắm tập trung cấp quốc gia đối với thuốc; (3) Thông tư số 05/2024/TT-BYT ngày 14/5/2024 quy định danh mục thuốc, thiết bị y tế, vật tư xét nghiệm được áp dụng hình thức đàm phán giá và quy trình, thủ tục lựa chọn nhà thầu đối với các gói thầu áp dụng hình thức đàm phán giá; (4) Thông tư số 07/2024/TT-BYT ngày 17/5/2024 quy định về đấu thầu thuốc tại cơ sở y tế công lập. Bộ Y tế cũng đã thực hiện các giải pháp nâng cao năng lực, hỗ trợ cho đơn vị có chức năng đấu thầu tập trung quốc gia; đề nghị người đứng đầu cơ sở y tế thực hiện đầy đủ trách nhiệm trong công tác đấu thầu, mua sắm thuốc, thiết bị y tế và chịu trách nhiệm nếu để xảy ra tình trạng thiếu thuốc, thiết bị y tế; tăng cường kiểm tra, giám sát, theo dõi để phát hiện kịp thời những hạn chế, sai sót và rút kinh nghiệm trong công tác đấu thầu.

Để đảm bảo quyền lợi cho người tham gia Bảo hiểm y tế, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 22/2024/TT-BYT ngày 18/10/2024 quy định về thanh toán chi phí thuốc, thiết bị y tế trực tiếp cho người có thẻ Bảo hiểm y tế đi khám bệnh, chữa bệnh. Trường hợp người bệnh có thẻ Bảo hiểm y tế đi khám bệnh, chữa bệnh phải tự mua thuốc do cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không có thuốc, thiết bị y tế theo quy định tại Thông tư số 22/2024/TT-BYT[1], Quỹ Bảo hiểm y tế sẽ thanh toán chi phí thuốc, thiết bị y tế trực tiếp cho người bệnh. Ngày 27/11/2024, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế, trong đó có quy định về điều chuyển thuốc, thiết bị y tế giữa các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh khi thuốc, thiết bị y tế không có sẵn và không thể thay thế.

4. Cử tri đề nghị xem xét áp dụng chế độ bảo hiểm y tế đối với bệnh nhân bị nhiễm HIV trong điều trị bệnh nhằm giảm bớt chi phí, đỡ áp lực về tài chính, qua đó có điều kiện chăm sóc sức khỏe tốt hơn.

Trên cơ sở quy định của pháp luật, Quốc hội và Chính phủ đã ban hành các chính sách, hướng dẫn về khám chữa bệnh Bảo hiểm y tế cho người bệnh HIV. Theo đó, người tham gia bảo hiểm y tế nhiễm HIV và người tham gia bảo hiểm y tế khi sử dụng các dịch vụ chăm sóc, điều trị liên quan đến HIV/AIDS được hưởng quyền lợi theo phạm vi quyền lợi, mức hưởng theo quy định của pháp luật về Bảo hiểm y tế (trừ trường hợp đã được các nguồn tài chính hợp pháp khác chi trả).

Người tham gia bảo hiểm y tế nhiễm HIV khi sử dụng các dịch vụ y tế liên quan đến HIV/AIDS được Quỹ Bảo hiểm y tế chi trả: (1) Thuốc kháng HIV (trừ trường hợp đã được nguồn tài chính hợp pháp khác chi trả); (2) Xét nghiệm HIV trong khám bệnh, chữa bệnh đối với phụ nữ trong thời kỳ mang thai và sinh con theo yêu cầu chuyên môn nếu không được các nguồn kinh phí khác chi trả; (3) Kỹ thuật đình chỉ thai nghén ở phụ nữ mang thai nhiễm HIV; (4) Khám bệnh, xét nghiệm HIV, thuốc kháng vi rút HIV và dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh khác liên quan đến HIV/AIDS đối với trẻ sinh ra từ mẹ nhiễm HIV; (5) Xét nghiệm HIV theo yêu cầu chuyên môn trong khám, chữa bệnh; (6) Xét nghiệm HIV, điều trị bằng thuốc kháng HIV đối với người phơi nhiễm với HIV, người nhiễm HIV do tai nạn rủi ro (trừ các trường hợp tai nạn rủi ro nghề nghiệp đã được ngân sách nhà nước chi trả); (7) Điều trị dự phòng nhiễm trùng cơ hội.

Hiện nay, trên 90% người bệnh nhiễm HIV đã có thẻ bảo hiểm y tế và tham gia khám bệnh, chữa bệnh điều trị HIV bằng thẻ bảo hiểm y tế. Đồng thời ngân sách nhà nước, nguồn viện trợ quốc tế hiện đang cung cấp miễn phí thuốc kháng HIV điều trị cho các trường hợp: (1) Trẻ em nhiễm HIV điều trị thuốc ARV dạng dùng trẻ em; (2) Trẻ em có chỉ định điều trị dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con; (3) Người lớn điều trị các phác đồ ARV quỹ Bảo hiểm y tế và ngân sách nhà nước chưa hỗ trợ; (4) Người bắt đầu điều trị ARV nhưng chưa tham gia bảo hiểm y tế, gián đoạn thẻ bảo hiểm y tế; (5) Người nhiễm HIV trong trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ, cơ sở giam giữ khác.

Đối với đối tượng là người nhiễm HIV, nếu không thuộc nhóm đối tượng là người có công, người nghèo, người cận nghèo, người dân tộc thiểu số, người sinh sống tại các vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, hộ nông, lâm, ngư nghiệp và diêm nghiệp có mức sống trung bình, công dân có thể tham gia bảo hiểm y tế theo hộ gia đình để hưởng mức đóng giảm dần theo quy định của Luật Bảo hiểm y tế như sau: (1) Người thứ nhất đóng bằng 4,5% mức lương cơ sở; (2) Người thứ hai, thứ ba, thứ tư đóng lần lượt bằng 70%, 60%, 50% mức đóng của người thứ nhất; (3) Từ người thứ năm trở đi đóng bằng 40% mức đóng của người thứ nhất.

Ngoài ra, tại điểm b, khoản 3, Nghị định số 75/2023/NĐ-CP đã quy định: Căn cứ khả năng ngân sách của địa phương và các nguồn kinh phí hợp pháp khác, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trình Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố quyết định mức hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế cho các đối tượng cao hơn mức hỗ trợ tối thiểu và mức hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế cho các đối tượng không được hưởng mức hỗ trợ theo quy định hiện hành[2].

Việc xem xét bổ sung chế độ bảo hiểm y tế đối với người bệnh HIV cũng là một vấn đề cần được chú trọng nhằm giảm bớt chi phí trong điều trị dài hạn và tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe toàn diện đối với người bệnh HIV. Tuy nhiên cần xem xét nghiên cứu để bảo đảm về tính chi phí, hiệu quả, khả thi và phù hợp cân đối thu, chi của Quỹ Bảo hiểm y tế. Vì vậy, Bộ Y tế cũng đề xuất nghiên cứu đề xuất mở rộng quyền lợi của người nhiễm HIV tham gia bảo hiểm y tế cần tiến hành song song với nghiên cứu, xem xét để tăng mức đóng bảo hiểm y tế hoặc các nguồn hỗ trợ khác để đảm bảo việc chi trả cho các chi phí khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế của đối tượng này.

Trên đây là nội dung trả lời đối với kiến nghị của cử tri tỉnh An Giang liên quan đến lĩnh vực Y tế, Bộ Y tế trân trọng kính gửi Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh An Giang để biết, thông tin tới cử tri.

Xin trân trọng cảm ơn./.

 


Nơi nhận:
- Như trên;
- Ban Dân nguyện - UBTVQH;
- VPCP: QHĐP, TH;
- VPQH;
- Các đ/c Thứ trưởng BYT;
- BYT: BH, AIDS, DS;
- Cổng TTĐT Bộ Y tế (để đăng tải);
- Lưu: VT, VPB1.

BỘ TRƯỞNG




Đào Hồng Lan

 



[1] Thông tư 22/2024/TT-BYT quy định tại thời điểm kê đơn thuốc, chỉ định sử dụng thiết bị y tế phải bảo đảm các điều kiện theo quy định sau đây:

1. Không có thuốc, thiết bị y tế do đang trong quá trình lựa chọn nhà thầu theo kế hoạch lựa chọn nhà thầu đã được duyệt theo một trong các hình thức: Đấu thầu rộng rãi hoặc đấu thầu hạn chế hoặc chào hàng cạnh tranh hoặc mua sắm trực tiếp hoặc lựa chọn nhà thầu trong trường hợp đặc biệt nhưng chưa lựa chọn được nhà thầu hoặc chào giá trực tuyến hoặc mua sắm trực tuyến và đã thực hiện chỉ định thầu rút gọn theo quy định tại điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 23 của Luật Đấu thầu và khoản 1 Điều 94 Nghị định số 24/2024/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu nhưng không lựa chọn được nhà thầu. Đồng thời, tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh:

a) Đối với thuốc: Không có thuốc thương mại nào chứa hoạt chất mà người bệnh được kê đơn hoặc cùng hoạt chất nhưng khác nồng độ hoặc hàm lượng hoặc dạng bào chế hoặc đường dùng và không thể thay thế để kê đơn cho người bệnh;

b) Đối với thiết bị y tế: Không có thiết bị y tế mà người bệnh được chỉ định sử dụng và không có thiết bị y tế để thay thế.

2. Không chuyển người bệnh đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh khác thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Tình trạng sức khỏe, bệnh lý người bệnh được xác định không đủ điều kiện để chuyển;

b) Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nơi người bệnh đang khám và điều trị đang trong thời gian cách ly y tế theo quy định của pháp luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm;

c) Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nơi người bệnh đang khám và điều trị là cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cấp chuyên sâu.

3. Không thể điều chuyển thuốc, thiết bị y tế giữa các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của pháp luật.

4. Thuốc, thiết bị y tế được kê đơn, chỉ định sử dụng phải phù hợp với phạm vi chuyên môn của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và đã được thanh toán chi phí Khám, chữa bệnh Bảo hiểm y tế tại một trong các cơ sở Khám, chữa bệnh trên toàn quốc.

5. Thuốc, thiết bị y tế được kê đơn, chỉ định sử dụng phải thuộc phạm vi quyền lợi của người tham gia Bảo hiểm y tế.

[2] Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương căn cứ khả năng ngân sách của địa phương và các nguồn kinh phí hợp pháp khác trình hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định:

a) Mức hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế cho các đối tượng cao hơn mức hỗ trợ tối thiểu quy định tại các điểm b và c khoản 1 Điều 8 Nghị định này;

b) Mức hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế cho các đối tượng không được hưởng mức hỗ trợ quy định tại khoản 1 Điều 8 Nghị định này;

c) Đối tượng được hỗ trợ và mức hỗ trợ cùng chi trả chi phí khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế cho người tham gia bảo hiểm y tế khi đi khám bệnh, chữa bệnh.

Nội dung văn bản đang được cập nhật

Công văn 123/BYT-VPB1 năm 2025 trả lời kiến nghị của cử tri tỉnh An Giang trước Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV do Bộ Y tế ban hành

Số hiệu: 123/BYT-VPB1
Loại văn bản: Công văn
Nơi ban hành: Bộ Y tế
Người ký: Đào Hồng Lan
Ngày ban hành: 07/01/2025
Ngày hiệu lực: Đã biết
Tình trạng: Đã biết
Văn bản được hướng dẫn - [0]
Văn bản được hợp nhất - [0]
Văn bản bị sửa đổi bổ sung - [0]
Văn bản bị đính chính - [0]
Văn bản bị thay thế - [0]
Văn bản được dẫn chiếu - [19]
Văn bản được căn cứ - [0]
Văn bản liên quan ngôn ngữ - [0]

Văn bản đang xem

Công văn 123/BYT-VPB1 năm 2025 trả lời kiến nghị của cử tri tỉnh An Giang trước Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV do Bộ Y tế ban hành

Văn bản liên quan cùng nội dung - [3]
Văn bản hướng dẫn - [0]
Văn bản hợp nhất - [0]
Văn bản sửa đổi bổ sung - [0]
Văn bản đính chính - [0]
Văn bản thay thế - [0]
Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Tài khoản để biết được tình trạng hiệu lực, tình trạng đã bị sửa đổi, bổ sung, thay thế, đính chính hay đã được hướng dẫn chưa của văn bản và thêm nhiều tiện ích khác
Loading…