Bộ lọc tìm kiếm

Tải văn bản

Lưu trữ Góp ý

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • Tiếng anh
  • Lược đồ

BỘ Y TẾ
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 121/BYT-VPB1
V/v trả lời kiến nghị của cử tri Thành phố Hà Nội trước Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV

Hà Nội, ngày 07 tháng 01 năm 2025

 

Kính gửi: Đoàn Đại biểu Quốc hội Thành phố Hà Nội

Bộ Y tế nhận được Công văn số 942/BDN ngày 06/11/2024 của Ban Dân nguyện - Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc đề nghị trả lời kiến nghị của cử tri gửi tới trước kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV, trong đó có một số kiến nghị của cử tri Thành phố Hà Nội.

Bộ Y tế xin trả lời đối với kiến nghị liên quan đến lĩnh vực quản lý của ngành Y tế, cụ thể như sau:

1. Cử tri đề nghị tham mưu Chính phủ trình Quốc hội sửa đổi Luật Bảo hiểm y tế theo hướng quan tâm chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng, khi khám chữa bệnh trái tuyến tại bệnh viện tuyến trung ương vẫn được hưởng đầy đủ quyền lợi bảo hiểm y tế như khám đúng tuyến; xem xét để các nhóm đối tượng là cựu quân nhân được kết nạp vào Hội Cựu chiến binh chưa được hưởng chế độ BHYT (gồm: hạ sĩ quan, chiến sỹ nhập ngũ sau 30/4/1975 đến ngày 31/8/1989 đã hoàn thành nhiệm vụ ở tuyến biên giới hải đảo, những vùng đặc biệt khó khăn; những quân nhân, cựu quân nhân được Quân đội đào tạo thành sĩ quan dự bị) được hưởng BHYT, góp phần đảm bảo an sinh xã hội và tác động tích cực đến công tác tuyển quân của địa phương.

Bảo hiểm y tế thực hiện trên nguyên tắc bảo đảm chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia. Mức đóng và mức hưởng bảo hiểm y tế được quy định cụ thể trong Luật Bảo hiểm y tế và các văn bản hướng dẫn, dựa trên khả năng đóng góp của các nhóm đối tượng, mức lương cơ sở, phạm vi quyền lợi và khả năng cân đối Quỹ Bảo hiểm y tế.

Theo quy định tại khoản 1, Điều 2 của Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng số 02/2020/UBTVQH14 ngày 09/12/2020 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Luật Bảo hiểm y tế, người có công[1] với cách mạng thuộc nhóm đối tượng do ngân sách nhà nước đóng. Nếu không thuộc nhóm đối tượng người có công hoặc đối tượng được hỗ trợ như người nghèo, người cận nghèo, người dân tộc thiểu số, người sinh sống tại các vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, hộ nông, lâm, ngư nghiệp và diêm nghiệp có mức sống trung bình[2], công dân có thể tham gia bảo hiểm y tế theo hộ gia đình để hưởng mức đóng giảm dần theo quy định của Luật Bảo hiểm y tế như sau: (1) Người thứ nhất đóng bằng 4,5% mức lương cơ sở; (2) Người thứ hai, thứ ba, thứ tư đóng lần lượt bằng 70%, 60%, 50% mức đóng của người thứ nhất; (3) Từ người thứ năm trở đi đóng bằng 40% mức đóng của người thứ nhất.

Ngoài ra, tại điểm b, khoản 3, Nghị định số 75/2023/NĐ-CP đã quy định: Căn cứ khả năng ngân sách của địa phương và các nguồn kinh phí hợp pháp khác, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trình Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố quyết định mức hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế cho các đối tượng cao hơn mức hỗ trợ tối thiểu và mức hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế cho các đối tượng không được hưởng mức hỗ trợ theo quy định hiện hành[3].

2. Cử tri cho rằng, hiện nay nhiều người bệnh gặp nhiều khó khăn khi (1) chi phí khám, chữa bệnh cao do xã hội hóa máy móc, trang thiết bị, vật tư y tế; (2) tình trạng thiếu một số vật tư, thuốc, trang thiết bị y tế phục vụ khám chữa bệnh hiện nay vẫn diễn ra; (3) danh mục thuốc bảo hiểm y tế còn bất cập, chưa thực sự là nguồn đảm bảo chính cho người dân khi khám, chữa bệnh. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ Y tế và bộ ngành có liên quan (4) nghiên cứu giải pháp điều hành để đảm bảo về thuốc và máy móc thiết bị y tế; (5) tăng cường đầu tư từ nguồn đầu tư công, phục vụ công tác khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ cho người dân.

2.1. Về việc thiếu thuốc, vật tư y tế phục vụ khám chữa bệnh

Thời gian qua, có thực trạng ở một số nơi, một số cơ sở khám bệnh, chữa bệnh gặp khó khăn, vướng mắc trong công tác đấu thầu thuốc gây nên tình trạng thiếu thuốc cần thiết để chỉ định sử dụng cho bệnh nhân. Ngoài các nguyên nhân khách quan như tác động của dịch bệnh, nguồn nguyên liệu sản xuất khan hiếm, việc nhập khẩu, cung ứng thuốc khó khăn, giá thuốc tăng cao so với trước nên các đơn vị cung ứng khó khăn và hạn chế hơn trong việc tham gia dự thầu... còn có các nguyên nhân chủ quan như do cơ chế đấu thầu, vướng mắc của văn bản quy phạm pháp luật, chậm có kết quả đấu thầu tập trung Quốc gia và cấp địa phương, thiếu nhân lực thực hiện công tác đấu thầu,...

Để khắc phục tình trạng thiếu thuốc và vật tư y tế, thời gian qua, nhiều văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu đã được ban hành như Luật Đấu thầu và Nghị định số 23/2024/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án thuộc trường hợp phải tổ chức đấu thầu theo quy định của pháp luật quản lý ngành, lĩnh vực, Nghị định số 24/2024/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu đã góp phần giải quyết khó khăn trong vấn đề mua sắm đấu thầu nói chung cũng như mua sắm thuốc nói riêng.

Bộ Y tế đã xây dựng và ban hành các thông tư hướng dẫn, bổ sung trong công tác đấu thầu thuốc, thiết bị y tế như: (1) Thông tư số 03/2024/TT-BYT ngày 16/4/2024 ban hành danh mục thuốc có ít nhất 03 hãng trong nước sản xuất trên dây chuyền sản xuất thuốc đáp ứng nguyên tắc, tiêu chuẩn EU-GMP hoặc tương đương EU-GMP và đáp ứng tiêu chí kỹ thuật theo quy định của Bộ Y tế và về chất lượng, giá, khả năng cung cấp; (2) Thông tư số 04/2024/TT-BYT ngày 20/4/2024 quy định danh mục mua sắm tập trung cấp quốc gia đối với thuốc; (3) Thông tư số 05/2024/TT-BYT ngày 14/5/2024 quy định danh mục thuốc, thiết bị y tế, vật tư xét nghiệm được áp dụng hình thức đàm phán giá và quy trình, thủ tục lựa chọn nhà thầu đối với các gói thầu áp dụng hình thức đàm phán giá; (4) Thông tư số 07/2024/TT-BYT ngày 17/5/2024 quy định về đấu thầu thuốc tại cơ sở y tế công lập. Bộ Y tế cũng đã thực hiện các giải pháp nâng cao năng lực, hỗ trợ cho đơn vị có chức năng đấu thầu tập trung quốc gia; đề nghị người đứng đầu cơ sở y tế thực hiện đầy đủ trách nhiệm trong công tác đấu thầu, mua sắm thuốc, thiết bị y tế và chịu trách nhiệm nếu để xảy ra tình trạng thiếu thuốc, thiết bị y tế; tăng cường kiểm tra, giám sát, theo dõi để phát hiện kịp thời những hạn chế, sai sót và rút kinh nghiệm trong công tác đấu thầu.

Để đảm bảo quyền lợi cho người tham gia Bảo hiểm y tế, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 22/2024/TT-BYT ngày 18/10/2024 quy định về thanh toán chi phí thuốc, thiết bị y tế trực tiếp cho người có thẻ Bảo hiểm y tế đi khám bệnh, chữa bệnh. Trường hợp người bệnh có thẻ Bảo hiểm y tế đi khám bệnh, chữa bệnh phải tự mua thuốc do cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không có thuốc, thiết bị y tế theo quy định tại Thông tư số 22/2024/TT-BYT[4], Quỹ Bảo hiểm y tế sẽ thanh toán chi phí thuốc, thiết bị y tế trực tiếp cho người bệnh. Ngày 27/11/2024, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế, trong đó có quy định về điều chuyển thuốc, thiết bị y tế giữa các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh khi thuốc, thiết bị y tế không có sẵn và không thể thay thế.

2.2. Về việc bổ sung danh mục thuốc bảo hiểm y tế, đổi mới cơ chế quản lý.

Ngày 16/11/2024, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 37/2024/TT-BYT quy định nguyên tắc, tiêu chí xây dựng, cập nhật, ghi thông tin, cấu trúc danh mục và hướng dẫn thanh toán đối với thuốc hóa dược, sinh phẩm, thuốc phóng xạ và chất đánh dấu thuộc phạm vi được hưởng của người tham gia bảo hiểm y tế. Căn cứ vào quy định tại Thông tư số 37/2024/TT-BYT, Bộ Y tế đang khẩn trương thực hiện rà soát, sửa đổi, cập nhật Thông tư ban hành danh mục thuốc để bổ sung vào danh mục các thuốc mới, có hiệu quả điều trị cao và đưa ra khỏi danh mục các thuốc không còn phù hợp. Tuy nhiên, việc bổ sung danh mục thuốc, thiết bị y tế, dịch vụ kỹ thuật y tế vào phạm vi được hưởng của người tham gia bảo hiểm y tế cần được xem xét cẩn thận để đảm bảo khả năng chi trả của Quỹ Bảo hiểm y tế.

2.3 Tăng cường đầu tư công

Ngày 30/01/2022, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình. Chương trình phân bổ gần 14.000 tỷ đồng cho ngành Y tế (trên cơ sở tổng hợp nhu cầu của các địa phương và đơn vị của Bộ Y tế) để đầu tư xây mới, cải tạo, nâng cấp, hiện đại hóa hệ thống y tế cơ sở, y tế dự phòng, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh, nâng cao năng lực phòng, chống dịch bệnh của các Viện nghiên cứu, Bệnh viện cấp trung ương gắn với đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực y tế, sản xuất vắc xin trong nước, thuốc điều trị COVID-19. Ngày 08/3/2023, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 202/QĐ-TTg về việc giao kế hoạch đầu tư vốn ngân sách trung ương của Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.

Ngoài ra, Bộ Y tế đã và đang nỗ lực huy động các nguồn lực đầu tư cho y tế cơ sở, triển khai một số chương trình, dự án lớn nhằm tăng cường đầu tư toàn diện cho tuyến y tế cơ sở trong thời gian tới; triển khai các nguồn lực đầu tư từ Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025; các dự án đầu tư cho y tế cơ sở nguồn vốn vay của Ngân hàng thế giới (WB) và Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB).

3. Cử tri đề nghị Bộ Y tế nghiên cứu mở rộng phạm vi chi trả cho các đối tượng tham gia bảo hiểm y tế như: (1) mở rộng danh mục thuốc bảo hiểm y tế; cải tiến, đổi mới cơ chế quản lý, (2) tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ số trong việc liên thông các tuyến phục vụ công tác chuyển viện, khai thác thông tin y tế liên quan đến người bệnh; (3) thời gian kê đơn thuốc điều trị ngoại trú cho nhóm bệnh nhân bị bệnh mạn tính đủ sử dụng tối thiểu 60 ngày, tối đa không quá 90 ngày, thay vì 30 ngày theo quy định hiện hành.

3.1 Về việc mở rộng danh mục thuốc bảo hiểm y tế; cải tiến, đổi mới cơ chế quản lý

Nội dung kiến nghị này đã được trả lời ở ý 2.2 câu hỏi số 2.

3.2 Về việc tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ số

Trong những năm qua, thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Bộ Y tế luôn coi ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số là nhiệm vụ quan trọng và ưu tiên hàng đầu. Bộ Y tế đã tham mưu Chính phủ trình Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII thông qua Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017 về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới, trong đó đặc biệt chú trọng đến việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin y tế. Cùng với đó là các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành để tạo thành hành lang pháp lý cho công tác này[5]. Bộ Y tế đã và đang triển khai nhiều biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả và thúc đẩy tiến trình phát triển, ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong ngành y tế như: (1) Tăng cường triển khai bệnh án điện tử tại các cơ sở y tế[6]; (2) Nâng cấp và đồng bộ các hệ thống quản lý thông tin y tế, đảm bảo tính liên thông và tích hợp giữa các hệ thống[7]; (3) Xây dựng và hoàn thiện các chính sách hỗ trợ để các cơ sở y tế có điều kiện thuận lợi hơn trong việc triển khai và ứng dụng công nghệ thông tin[8].

Với sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, cùng với nỗ lực của toàn ngành y tế và sự hợp tác của các Bộ, ngành liên quan, bạn bè quốc tế, công tác ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong y tế đã đạt được những bước phát triển. Theo đó, người dân và người bệnh đã được hưởng lợi từ chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác y tế.

3.3 Về thời gian kê đơn thuốc điều trị ngoại trú

Hiện nay, theo quy định tại khoản 5, Điều 4, Thông tư số 52/2017/TT-BYT ngày 29/12/2017 quy định về đơn thuốc và việc kê đơn thuốc hóa dược, sinh phẩm trong điều trị ngoại trú, số lượng thuốc được kê đơn thực hiện theo Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị được quy định tại điểm a, khoản 4, Điều 4, Thông tư số 52/2017/TT-BYT hoặc đủ sử dụng nhưng tối đa không quá 30 (ba mươi) ngày.

Trong thời gian qua, trên cơ sở đề nghị của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Bộ Y tế đã có Công văn số 1724/KCB-NV ngày 24/10/2024 gửi các Sở Y tế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Bệnh viện trực thuộc Bộ để xin ý kiến đề xuất áp dụng thí điểm kê đơn thuốc ngoại trú trên 30 ngày đối với một số bệnh, nhóm bệnh. Trên cơ sở trả lời của các đơn vị, Bộ Y tế sẽ ban hành văn bản cho phép thí điểm kê đơn cấp phát với số lượng thuốc tối đa hơn 30 ngày tại một số cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trong thời gian tới.

4. Cử tri đề nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành chức năng nghiên cứu sửa đổi Quyết định số 73/2011/QĐ-TTg ngày 28/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc quy định một số chế độ phụ cấp đặc thù đối với viên chức, người lao động trong các cơ sở y tế công lập và chế độ phụ cấp chống dịch theo hướng tăng mức phụ cấp trực chuyên môn, đồng thời nâng mức phụ cấp cho nhân viên y tế thôn, bản.

Hiện nay, Bộ Y tế đang khẩn trương hoàn thiện dự thảo Quyết định sửa đổi, bổ sung Quyết định số 73/2011/QĐ-TTg ngày 28/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc quy định một số chế độ phụ cấp đặc thù đối với công chức, viên chức, người lao động trong các cơ sở y tế công lập và chế độ phụ cấp chống dịch và tổ chức xin ý kiến các đối tượng chịu sự tác động để hoàn chỉnh Hồ sơ gửi Bộ Tư pháp thẩm định; trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, ban hành theo quy định.

Trên đây là nội dung trả lời đối với kiến nghị của cử tri Thành phố Hà Nội liên quan đến lĩnh vực Y tế, Bộ Y tế trân trọng kính gửi Đoàn Đại biểu Quốc hội Thành phố Hà Nội để biết, thông tin tới cử tri.

Xin trân trọng cảm ơn./.

 


Nơi nhận:
- Như trên;
- Ban Dân nguyện - UBTVQH;
- VPCP: QHĐP, TH;
- VPQH;
- Các đ/c Thứ trưởng BYT;
- BYT: KHTC, BH, KCB, TCCB;
- Cổng TTĐT Bộ Y tế (để đăng tải);
- Lưu: VT, VPB1.

BỘ TRƯỞNG




Đào Hồng Lan

 



[1] 1. Người có công với cách mạng bao gồm:

a) Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945;

b) Người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến ngày khởi nghĩa tháng Tám năm 1945;

c) Liệt sỹ;

d) Bà mẹ Việt Nam anh hùng;

đ) Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân;

e) Anh hùng Lao động trong thời kỳ kháng chiến;

g) Thương binh, bao gồm cả thương binh loại B được công nhận trước ngày 31 tháng 12 năm 1993; người hưởng chính sách như thương binh;

h) Bệnh binh;

i) Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học;

k) Người hoạt động cách mạng, kháng chiến, bảo vệ Tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế bị địch bắt tù, đày;

l) Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế;

m) Người có công giúp đỡ cách mạng.

[2] a) Hỗ trợ 100% mức đóng bảo hiểm y tế đối với người thuộc hộ gia đình cận nghèo đang cư trú trên địa bàn các huyện nghèo theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản khác của cơ quan có thẩm quyền;

b) Hỗ trợ tối thiểu 70% mức đóng bảo hiểm y tế đối với đối tượng quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 4 Nghị định này

[3] Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương căn cứ khả năng ngân sách của địa phương và các nguồn kinh phí hợp pháp khác trình hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định:

a) Mức hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế cho các đối tượng cao hơn mức hỗ trợ tối thiểu quy định tại các điểm b và c khoản 1 Điều 8 Nghị định này;

b) Mức hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế cho các đối tượng không được hưởng mức hỗ trợ quy định tại khoản 1 Điều 8 Nghị định này;

c) Đối tượng được hỗ trợ và mức hỗ trợ cùng chi trả chi phí khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế cho người tham gia bảo hiểm y tế khi đi khám bệnh, chữa bệnh.

[4] Thông tư 22/2024/TT-BYT quy định tại thời điểm kê đơn thuốc, chỉ định sử dụng thiết bị y tế phải bảo đảm các điều kiện theo quy định sau đây:

1. Không có thuốc, thiết bị y tế do đang trong quá trình lựa chọn nhà thầu theo kế hoạch lựa chọn nhà thầu đã được duyệt theo một trong các hình thức: Đấu thầu rộng rãi hoặc đấu thầu hạn chế hoặc chào hàng cạnh tranh hoặc mua sắm trực tiếp hoặc lựa chọn nhà thầu trong trường hợp đặc biệt nhưng chưa lựa chọn được nhà thầu hoặc chào giá trực tuyến hoặc mua sắm trực tuyến và đã thực hiện chỉ định thầu rút gọn theo quy định tại điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 23 của Luật Đấu thầu và khoản 1 Điều 94 Nghị định số 24/2024/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu nhưng không lựa chọn được nhà thầu. Đồng thời, tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh:

a) Đối với thuốc: Không có thuốc thương mại nào chứa hoạt chất mà người bệnh được kê đơn hoặc cùng hoạt chất nhưng khác nồng độ hoặc hàm lượng hoặc dạng bào chế hoặc đường dùng và không thể thay thế để kê đơn cho người bệnh;

b) Đối với thiết bị y tế: Không có thiết bị y tế mà người bệnh được chỉ định sử dụng và không có thiết bị y tế để thay thế.

2. Không chuyển người bệnh đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh khác thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Tình trạng sức khỏe, bệnh lý người bệnh được xác định không đủ điều kiện để chuyển;

b) Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nơi người bệnh đang khám và điều trị đang trong thời gian cách ly y tế theo quy định của pháp luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm;

c) Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nơi người bệnh đang khám và điều trị là cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cấp chuyên sâu.

3. Không thể điều chuyển thuốc, thiết bị y tế giữa các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của pháp luật.

4. Thuốc, thiết bị y tế được kê đơn, chỉ định sử dụng phải phù hợp với phạm vi chuyên môn của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và đã được thanh toán chi phí Khám, chữa bệnh Bảo hiểm y tế tại một trong các cơ sở Khám, chữa bệnh trên toàn quốc.

5. Thuốc, thiết bị y tế được kê đơn, chỉ định sử dụng phải thuộc phạm vi quyền lợi của người tham gia Bảo hiểm y tế.

[5] - Nghị quyết số 157-NQ/BCSĐ ngày 03/2/2023 về Chuyển đổi số y tế đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

- Quyết định số 1710/QĐ-BYT ngày 05/4/2023 của Bộ Y tế để thực hiện Nghị quyết này.

- Thông tư số 53/2014/TT-BYT ngày 29/12/2014 của Bộ Y tế quy định điều kiện hoạt động y tế trên môi trường mạng.

- Thông tư số 48/2017/TT-BYT ngày 28/12/2017 của Bộ Y tế quy định trích chuyển dữ liệu điện tử trong quản lý và thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế.

- Thông tư số 54/2017/TT-BYT ngày 29/12/2017 của Bộ Y tế ban hành Bộ tiêu chí ứng dụng công nghệ thông tin tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.

- Thông tư số 46/2018/TT-BYT ngày 28/12/2018 của Bộ Y tế quy định về bệnh án điện tử.

- Quyết định số 4210/QĐ-BYT ngày 20/09/2017 và Quyết định số 130/QĐ-BYT của Bộ Y tế Quy định chuẩn và định dạng dữ liệu đầu ra sử dụng trong quản lý, giám định và thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế.

- Quyết định số 5969/QĐ-BYT ngày 31/12/2021 của Bộ Y tế phê duyệt về Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin của Bộ Y tế giai đoạn 2021-2025.

- Quyết định số 5316/QĐ-BYT ngày 22/12/2020 của Bộ Y tế ban hành về Chương trình chuyển đổi số y tế đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030.

- Quyết định số 4888/QĐ-BYT ngày 18/10/2019 của Bộ Y tế phê duyệt đề án phát triển công nghệ thông tin y tế thông minh giai đoạn 2019 - 2025.

- Quyết định số 2089/QĐ-BYT ngày 09/5/2023 của Bộ Y tế phê duyệt Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin và thực hiện nhiệm vụ triển khai Đề án 06 của Bộ Y tế năm 2023.

- Quyết định số 3356/QĐ-BYT ngày 28/8/2023 của Bộ Y tế về việc phê duyệt điều chỉnh, bổ sung Quyết định số 2089/QĐ-BYT ngày 09/5/2023 của Bộ Y tế phê duyệt Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin và thực hiện nhiệm vụ triển khai Đề án 06/CP của Bộ Y tế năm 2023.

- Quyết định số 2491/QĐ-BYT ngày 13/6/2023 của Bộ Y tế phê duyệt Đề án thực hiện nhiệm vụ trọng tâm về chuyển đổi số của Bộ Y tế giai đoạn 2023-2025, định hướng đến năm 2030.

- Công văn số 5295/BYT-K2ĐT ngày 22/8/2023 của Bộ Y tế gửi các đơn vị thuộc/trực thuộc Bộ, 63 Sở Y tế, y tế các bộ/ngành về hướng dẫn, đôn đốc triển khai công tác chuyển đổi số, thực hiện Đề án 06/CP.

[6] Xây dựng Thông tư thay thế Thông tư số 46/2018/TT-BYT ngày 28/12/2018 quy định hồ sơ bệnh án điện tử.

[7] Bộ Y tế đang xây dựng dự thảo Nghị định quy định quản lý dữ liệu y tế, dự kiến trình Chính phủ trong tháng 7 năm 2024.

[8] Luật Khám bệnh, chữa bệnh đã được Quốc hội ban hành năm 2023, trong đó có cơ cấu chi phí cho ứng dụng công nghệ thông tin

Nội dung văn bản đang được cập nhật

Công văn 121/BYT-VPB1 năm 2025 trả lời kiến nghị của cử tri Thành phố Hà Nội trước Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV do Bộ Y tế ban hành

Số hiệu: 121/BYT-VPB1
Loại văn bản: Công văn
Nơi ban hành: Bộ Y tế
Người ký: Đào Hồng Lan
Ngày ban hành: 07/01/2025
Ngày hiệu lực: Đã biết
Tình trạng: Đã biết
Văn bản được hướng dẫn - [0]
Văn bản được hợp nhất - [0]
Văn bản bị sửa đổi bổ sung - [0]
Văn bản bị đính chính - [0]
Văn bản bị thay thế - [0]
Văn bản được dẫn chiếu - [34]
Văn bản được căn cứ - [0]
Văn bản liên quan ngôn ngữ - [0]

Văn bản đang xem

Công văn 121/BYT-VPB1 năm 2025 trả lời kiến nghị của cử tri Thành phố Hà Nội trước Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV do Bộ Y tế ban hành

Văn bản liên quan cùng nội dung - [3]
Văn bản hướng dẫn - [0]
Văn bản hợp nhất - [0]
Văn bản sửa đổi bổ sung - [0]
Văn bản đính chính - [0]
Văn bản thay thế - [0]
Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Tài khoản để biết được tình trạng hiệu lực, tình trạng đã bị sửa đổi, bổ sung, thay thế, đính chính hay đã được hướng dẫn chưa của văn bản và thêm nhiều tiện ích khác
Loading…